Anh ta rất giống kiểu “tra nam”* — vừa coi tình cảm của người khác như trò chơi, vừa có thể thản nhiên tỏ ra phiền chán.
Thế nhưng, nghe nói gia tộc nhà họ Cố vốn nghiêm khắc như cổ thụ trăm năm, mà bản thân Cố Tùng lại là người nhân phẩm đoan chính, nguyên tắc rạch ròi. Anh chưa từng làm chuyện bốc đồng, thậm chí… trong chuyện tình cảm còn có chút bất ngờ mà thuần khiết.
Ít nhất, tám năm trước, Cố Tùng là như thế.
“Bất quá, dạo này thằng nhóc ấy cuối cùng cũng như sắt đá nở hoa rồi!” – bác sĩ Triệu thần thần bí bí cười nói.
“Năm nay nó bỏ cả tiền đồ xán lạn, quyết định về nước. Nghe nói là vì một sư tỷ của tổ bên cạnh. Sư tỷ đó lại là học trò đắc ý của một vị giáo sư khác, hơn nữa thế gia hai bên vốn giao hảo, hai ông cụ còn từng là chiến hữu cũ. Cô nói xem, trên đời này còn ai xứng đôi hơn bọn họ nữa chứ?”
Tôi lặng lẽ lắng nghe, gật đầu:
“Quả thực… rất xứng đôi.”
Thanh mai trúc mã, kim đồng ngọc nữ, quanh quẩn bao năm cuối cùng cũng đi đến với nhau. Giống như một mảnh tình yêu bước ra từ truyện cổ tích.
“Chỉ tiếc, trước kia hai đứa đều không thông suốt, chỉ lo nghiên cứu. Đến khi sư tỷ hồi hương mấy tháng trước, Cố Tùng có lẽ cũng sốt ruột, lập tức vội vàng theo về. Hơn nữa, sư tỷ đến Nhị Viện, Cố Tùng cũng đến Nhị Viện. Cô xem, chẳng phải rõ ràng có tình ý sao?”
Tôi lại gật đầu, tỏ vẻ tán đồng:
“Không giống trùng hợp.”
“Đấy! Cố Tùng miệng thì cứng, nhưng rõ ràng thiên lý truy thê rồi.”
Bác sĩ Triệu chống tay lên đùi cái đét.
“À, hồi cấp ba nó không yêu đương, nhưng chắc chắn có cô gái thích chứ? Lúc theo đuổi người ta thì thế nào? Có từng tỏ tình chưa?”
“……”
Tôi cúi đầu, xấu hổ.
“Không rõ. Tôi và bác sĩ Cố hồi cấp ba… không thân.”
Bác sĩ Triệu thở dài tiếc nuối:
“Cũng phải, tính nó vậy, bạn bè cũng chẳng mấy ai…”
Chưa kịp dứt lời, phía sau vang lên tiếng gõ cửa.
Cố Tùng đứng đó, chậm rãi rút tay khỏi túi, ánh mắt thản nhiên:
“Đang nói gì thế?”
“Không, không gì cả!” – bác sĩ Triệu vội vàng đáp, giọng có chút chột dạ.
“À, giám đốc gọi tôi, tôi đi trước nhé. Hai người cứ từ từ nói chuyện.”
Cố Tùng hẳn là chưa nghe đoạn đối thoại kia, cũng chưa nhớ ra tôi là ai.
Kỳ thực, tôi và anh từng ngồi cùng bàn suốt nửa năm lớp 12.
Nhưng anh vốn ít lời, còn tôi thì quá bận rộn.
Bận học. Bận kiếm tiền.
Ở trường, tôi luôn cắm cúi hoàn thành bài tập ngay trong tiết học. Tôi buộc phải viết xong tất cả trước khi tan trường, để buổi tối còn kịp về nhà giặt giũ, nấu cơm, chuẩn bị nguyên liệu, xay đậu làm sữa; rồi sáng hôm sau, bốn giờ, dậy sớm phụ chị hấp bánh bao, tranh chỗ bán đồ ăn sáng.
Ngồi cùng bàn lâu ngày, dần dà chúng tôi cũng có những ngầm hiểu không cần lời.
Ví dụ tôi ngồi phía trong sát tường, ra vào bất tiện, nên mỗi lần anh đi lấy nước đều tiện tay lấy thêm giúp tôi.
Ví dụ anh có chút ám ảnh sạch sẽ, nên khi tôi thu bài hộ, bao giờ cũng gấp thật ngay ngắn.
Ví dụ lúc tôi tranh thủ làm bài trên lớp, thấy thầy sắp bước xuống bục, Cố Tùng sẽ gõ nhẹ lên bàn tôi để nhắc nhở.
Ví dụ mỗi sáng tôi đều làm thêm một phần gà nếp không nấm hương cho anh…
Thế nhưng, những lời chúng tôi trao đổi mỗi ngày, cộng lại e chưa đến năm câu.
Ngoài nửa năm làm bạn cùng bàn, cộng thêm màn tỏ tình bất ngờ buổi tốt nghiệp, giữa tôi và anh, quả thực chẳng thể gọi là thân thiết.
Thế nên, lúc nãy bác sĩ Triệu hỏi, tôi chỉ có thể thành thật mà trả lời.
Cũng vì thế, việc Cố Tùng không nhớ tôi – là chuyện rất bình thường.
“Tôi vừa xem qua bệnh án.”
Cố Tùng thoáng liếc sang Nhân Nhân đang ngủ trong lòng tôi. Không thừa một câu xã giao, anh ngồi xuống, trực tiếp đi thẳng vào chủ đề:
“Hiện tại tôi cần nắm rõ một số tình huống cụ thể.”
Anh hỏi rất kỹ: bệnh sử, ca mổ trước đó, chi tiết từng lần phát bệnh… rồi chăm chú ghi chép vào máy tính, chuyên tâm đến mức không hề phân tâm.
Sắp kết thúc, khi con chuột lướt trên màn hình, anh bất ngờ hỏi:
“Các ca phẫu thuật của bé, đều chỉ mình cô chăm sóc?
Chồng cô đâu?”
Tôi thuận miệng đáp:
“Anh ấy khá bận.
Mọi ca mổ của con đều do tôi đi cùng. Nếu bác sĩ còn gì cần biết, có thể hỏi tôi.”
Bàn tay Cố Tùng khựng lại.
Anh ngước mắt nhìn tôi, đáy mắt đen sâu thẳm, chất giọng lạnh nhạt nhưng dường như đè nén một tia phẫn nộ:
“Bận?
Bận đến mức có chuyện gì quan trọng hơn cả con gái mình sao?”
Tôi á khẩu, nghẹn lời.
May thay, anh chỉ ném câu hỏi đó rồi cúi xuống, tiếp tục xem bệnh án, mày khẽ nhíu:
“Bệnh tình của bé… thật sự phức tạp.”
Trái tim tôi lập tức treo lên tận cổ, căng thẳng đến mức ù cả tai.
“Con bé còn quá nhỏ.” – giọng anh như một bản án khắc nghiệt, vọng từ nơi xa xăm, qua lớp thủy tinh mờ đục. – “Tình trạng cũng khác biệt với ca bệnh tôi từng gặp.”
Nói xong, anh dường như định đặt bệnh án xuống.
Tim tôi chợt hẫng một nhịp.
Hoảng hốt, tôi vội vã đưa tay giữ chặt cánh tay anh:
“Bác sĩ, xin anh…”
Tôi sợ đánh thức Nhân Nhân, giọng nén xuống thật thấp:
“Xin anh… cứu lấy con gái tôi. Nó mới ba tuổi thôi.”
Căn bệnh này khó khăn lắm mới thấy chút hy vọng. Nếu ngay cả Cố Tùng cũng từ chối…
Tôi run rẩy móc ra phong bì đã giấu kỹ trong người, nhét vào tay anh.
Cố Tùng thoáng sững lại, cúi mắt nhìn.
Ánh mắt anh dần nheo lại, khóa chặt lấy tôi:
“Cô đang… đưa hối lộ cho tôi?”
Đến lúc đó, tôi mới bàng hoàng nhận ra mình vừa làm một việc ngu xuẩn đến mức nào.
Nhiều năm nay, tôi đã quá quen với cái “luật ngầm”: muốn việc trôi chảy, phải đưa tiền.
Nhưng tôi lại quên mất – với thân phận và địa vị nhà họ Cố, Cố Tùng có muốn gì mà chẳng được? Xa hoa tửu sắc, tiêu tiền như nước – vốn chẳng đáng để anh bận tâm.
Đời anh lẽ ra có thể sống dễ dàng, thuận lợi đến cực điểm.
Thế mà anh lại tự mình sang Đức tám năm, chuyên tâm y học.
Số tiền nhỏ nhoi tôi đưa, đối với anh… chẳng khác nào một sự sỉ nhục.
“Tôi không có ý gì khác.”
Tôi gượng cười, gò ép giọng nói.
“Bệnh tình của Nhân Nhân khó xử lý, tôi chỉ là… muốn cảm ơn bác sĩ một chút.”
Tôi cố biến việc ấy thành một lời “tỏ lòng biết ơn”.
Nhưng khi ngẩng đầu, tôi chợt thấy rõ ràng bóng phản chiếu của chính mình trên tấm bảng quảng cáo trước mặt – một gương mặt với biểu tình vụ lợi, xu nịnh, tầm thường.
Xấu xí đến cực điểm.