Nghe nói, hai huynh trưởng của Thôi Tam nương lại cờ bạc, mượn danh Tạ Thận Chi. Sòng bạc không làm khó, chỉ đem khế nợ bỏ vào miệng sư tử đá trước cổng Tạ phủ. Chuyện kết cục ra sao ta không rõ, chỉ biết cửa hàng của Thôi Tam nương đóng cửa, nàng được Tạ Thận Chi tìm một biệt viện khác, có người hầu hạ ba bữa.
Nghe thế, ta thấy không ổn. Ta và Thôi Tam nương chỉ gặp một lần, khi gặp, việc đầu tiên nàng nói là chuyện tiền thuê cửa hàng. Rõ ràng nàng tự trọng, rất để tâm lời đồn mình dựa dẫm Tạ Thận Chi. Nếu giờ thành chim hoàng yến bị giam lồng, e là hai người sẽ sinh hiềm khích. Chỉ tiếc, chuyện này chẳng còn liên quan đến ta.
Ta tự may áo cưới. Trời dần ấm, tiểu thư phủ Quốc công – Tống Nhược Tích – là bạn từ nhỏ của ta, sắp đến sinh thần, mời ta đến châu báu các ở phía nam thành chọn trang sức.
Đừng nói mẫu thân, ngay cả Tống Nhược Tích cũng thấy kỳ lạ vì ta đổi ý gả cho Tạ Vọng Chi. Dù đều là người Tạ gia, nhưng trước đây ai cũng đồn Tô gia ta vẫn hướng về Tạ Tam lang.
Trên đường, nàng mấy lần ngập ngừng, mắt cứ liếc ta. Ta thấy nàng khó chịu nổi, bèn cười: "Ngươi hỏi đi."
Quả nhiên, nàng hỏi thẳng. Ta nên trả lời thế nào? Nói Tạ Thận Chi không thương ta, gả qua chỉ khổ mình? Hay nói Tạ Vọng Chi quyền thế hơn, gả qua có lợi cho Tô gia?
Nghĩ một lát, ta trái lòng mà đáp: "Thực không giấu gì, ta đã ngưỡng mộ Tạ Đại lang từ lâu."
Đúng lúc có Cẩm y vệ làm án, một đội kỵ mã phi nhanh qua. Dẫn đầu là một hắc mã, y phục thêu chìm hoa văn phi ngư, ngang hông đeo đao Tú Xuân Hàn, dung mạo lạnh lùng, thần sắc thản nhiên. Đúng là hắn.
Ta nghẹn lời, tim hẫng một nhịp. Tống Nhược Tích dường như không thấy rõ, chỉ vội che miệng mũi tránh bụi, khẽ ho mấy tiếng, lẩm bẩm: "Không đâu vào đâu, lại gặp đám Diêm La sống này. Không chừng lại đi đâu đánh úp nhà ai."
Nàng ngừng một chút, rồi lại nhớ tới chuyện vừa nói, ánh mắt sáng rực nhìn ta: "Ngươi đã ngưỡng mộ Tạ Đại lang từ lâu? Sao ta không hay? Từ khi nào vậy?"
Ta ngửa mặt nhìn trời, đầu óc rỗng tuếch mà bịa: "…Năm ngoái, yến hội Trung thu của Hoàng hậu nương nương."
"Ơ, Tạ Đại lang có tới sao? Ta nhớ Tạ đại nhân xưa nay không dự mấy chuyện này mà?"
Ta khẳng định khô khốc: " Có, chỉ là ngươi quên thôi."
5. Tháng tư đầu xuân, ta cùng Tạ Đại lang thành thân. Hôn sự vô cùng long trọng, nói không hối tiếc thì cũng chẳng thể. Dù sao, ngày này ta đã mong ngóng suốt bao năm. Khi mẫu thân chải tóc cho ta, thoáng chốc ta sững sờ — chẳng biết ở một thế giới khác, có phải không có Thôi Tam Nương, ta và Tạ Thận Chi sẽ cùng nhau bạc đầu hay không.
Tiếng pháo nổ vang trời, khói mịt mù, tiếng người rộn rã. Trước khi bước lên kiệu hoa, ta không cẩn thận, một chân đá trúng trụ cửa, suýt ngã. Từ bên cạnh vươn ra một bàn tay, nhanh chóng đỡ lấy ta. Ta quay sang, cách lớp khăn phủ, chỉ thấy bóng hình mơ hồ. Ta khẽ nói lời cảm tạ, xung quanh ồn ã quá, chẳng biết người ấy có nghe thấy không.
Tạ Vọng Chi là con thứ, mẫu thân đã mất, trong các huynh đệ, hắn là người lớn tuổi nhất, lại giữ chức vụ trọng yếu trong triều, nên đã sớm tách ra ở biệt viện. Song, thành thân vẫn phải về phủ chính Tạ gia, ra mắt thân tộc, dâng trà cho lão gia Tạ phủ với danh phận tân tức phụ.
Khăn phủ được cây trượng gảy lên, trước tiên hiện ra đôi môi mỏng, lướt qua sống mũi cao, ta ngẩng mắt, bất chợt chạm phải ánh nhìn của Tạ Vọng Chi. Kỳ thực, ta đã gặp hắn nhiều lần, phần lớn là khi hắn vội vã đi ngang, bên hông đeo bội đao, ta chỉ kịp thoáng liếc. Như hôm nay, gần đến mức có thể nhìn rõ từng nét, vẫn là lần đầu.
Tạ Thận Chi thanh lãnh. Còn Tạ Đại lang, tuy dung mạo tựa ba phần, song đôi mày ánh mắt lại sắc bén hơn nhiều — e là do nhiều năm ngâm mình trong m.á.u chốn Cẩm Y Vệ.
Giữa tiếng reo hò xung quanh, ta vô cớ đỏ mặt, rụt rè mỉm cười với hắn. Hắn ngẩn ra, rồi cũng chậm rãi đáp lại một nụ cười, nét sát khí nơi chân mày như mây tan khói tản.
Hôn sự long trọng, khách khứa đông đảo, ta nghe có người khe khẽ hít một hơi, than thầm tân nương diễm lệ. Đích nữ Tô gia, từ nhỏ được nâng niu trong lòng bàn tay, cử chỉ phong thái chẳng thua gì công chúa trong hoàng thành. Ngày đại hôn, ắt phải là người rạng rỡ nhất.
Tạ Vọng Chi dắt ta lần lượt bái kiến mọi người trong Tạ phủ, ta theo sau hắn nửa bước, chỉ cần quay lại là chạm được. Ta đã lâu không gặp Tạ Thận Chi. Tạ Tam lang, dù đứng giữa đám đông, vẫn là công tử phong hoa tuấn tú, khiến người ta nhận ra ngay.
Người xem náo nhiệt chung quanh bỗng im lặng chốc lát. Chuyện giữa ta và Tạ Thận Chi, ở kinh thành đôi khi vẫn có lời đồn, ai nấy đều dõi theo, nghĩ rằng ta sẽ thất thố. Họ đã coi thường ta. Dù sao, từ nay ta cùng Tạ Vọng Chi chung một nhà, sao có thể để người khác thấy nửa phần trò cười vào lúc này.
Ta giữ nụ cười nhạt trên môi, hành lễ với Tạ Thận Chi, lễ nghi chu toàn như buổi đầu gặp mặt. “Tam đệ.” Sắc mặt Tạ Thận Chi không tốt, chẳng có ý cười, nhưng nghĩ lại, vốn hắn chẳng phải người hay cười. Hắn gọi ta: “Đại tẩu.”
Tạ Vọng Chi chẳng biết từ lúc nào đã nắm tay ta, ta càng siết c.h.ặ.t t.a.y hắn. Từ đây, ta và Tạ Tam lang, chẳng còn liên can.
6. Cuộc sống sau hôn nhân với Tạ Vọng Chi rất đỗi bình lặng. Hắn bận công vụ, ít khi ở nhà. Mọi việc lớn nhỏ trong phủ, đều giao cho ta quán xuyến. Có điều gì ta chưa quyết được, hỏi qua ý hắn, hắn chỉ nói: “Theo ý nàng mà làm.”
Quả thật, hắn chẳng mấy khi về phủ. Một lần, ta thuận tay vùi vài hạt hướng dương xuống đất, đến khi hắn trở về, đã thấy cả một vạt hoa vàng tươi đón gió xuân. Về sau, mỗi khi xuất môn, hắn đều mang về một túi gấm nhỏ đựng hạt giống hoa ở các nơi. Thổ nhưỡng kinh thành khác với nơi khác, chẳng dám chắc đều sống, ta cứ cố gắng vun trồng. Hết một mùa xuân, trong vườn đã lên một vạt mầm, ta lại dựng giàn, mong rằng sang năm, giàn sẽ đầy dây bìm bìm leo.
Chúng ta chưa từng viên phòng. Không biết có phải đúng như lời đồn ở kinh thành rằng hắn không gần nữ sắc. Nhưng ta mơ hồ có một nỗi lo khác — chuyện giữa ta và Tạ Tam lang, hắn ắt biết rõ. Ta nói mình đã buông, người khác liệu tin được mấy phần. Mà việc này, hắn không nhắc, ta cũng khó chủ động mở lời.