11
Tôi không phủ nhận, tôi thực sự có chút rung động với Từ Phi Trì.
Lý do cũng rất đơn giản. Có lần tôi vì một dự án nan giải mà buồn bực suốt nhiều ngày, chiều hôm đó ngồi thất thần một mình trên ghế đá ở quảng trường.
Bên tai là tiếng cười đùa ồn ào, bong bóng và bóng bay sặc sỡ trôi nổi khắp nơi — nhưng tất cả đều chẳng liên quan gì đến tôi.
Trong khung cảnh đó, một chú gấu bông mặc đồ mascot, cầm theo một quả bóng bay, lách qua đám đông đi tới bên cạnh tôi, buộc quả bóng vào cổ tay tôi.
Rồi nhảy cho tôi xem một điệu “Vũ điệu thỏ”.
Thật ra nhảy không chuẩn lắm, nhưng vẫn làm tôi bật cười. Tôi hơi nghiêng người, nhìn cậu trêu chọc:
"Mặc đồ gấu bông mà nhảy vũ điệu thỏ, Từ Phi Trì, cậu cũng biết làm trò thật đấy."
Cậu tiến lại gần vài bước, tháo đầu gấu xuống, lộ ra gương mặt đỏ bừng, tóc mai ướt đẫm mồ hôi, nhưng đôi mắt lại đen láy sáng rõ, nhìn thẳng vào tôi, nói:
"Mặc gì không quan trọng, nhảy cái gì cũng không quan trọng, quan trọng là… Giang Tuế, chị đã cười rồi."
Đúng vậy, tôi đã cười.
Thế nên lý do rung động cũng chỉ đơn giản như thế — cậu ấy làm tôi vui.
Sau đó tôi híp mắt nhìn cậu một lúc, hỏi nhỏ:
"Lần trước cũng là cậu mặc đồ gấu bông phải không?"
Là cái lần tôi và Cố Hằng cãi nhau vì Tống Âm Âm lần đầu tiên, tôi ngồi bên cửa sổ quán cà phê buồn bã, thì một chú gấu bông đi tới, cách tấm kính làm một màn ảo thuật nhỏ cho tôi xem.
Lúc đó Từ Phi Trì còn chưa đến công ty, tôi không biết người trong bộ đồ ấy là ai, chỉ nhớ cuối cùng tôi viết một chữ "Cảm ơn" bằng son môi lên khăn giấy, cậu ta nhìn tôi vài giây, rồi xoay người lẫn vào dòng người.
Không lâu sau đó, tôi nghe thấy một thực tập sinh trong công ty tự giới thiệu:
"Chào mọi người, tôi tên là Từ Phi Trì."
Lần này thì khác — cậu không đeo đầu gấu nữa. Sau khi nhảy xong, cậu đứng trước mặt tôi, nhìn tôi một lúc rồi khẽ hỏi:
"Chị còn nhớ em không?"
Tôi kéo nhẹ sợi dây bóng bay trên tay, chớp mắt cười:
"Tất nhiên là nhớ."
So với cảm xúc mãnh liệt như rượu mạnh của Cố Hằng, thì cảm xúc Từ Phi Trì đem lại giống như một ly nước ấm — không cuồng nhiệt, không khiến người ta mất kiểm soát, chỉ nhẹ nhàng, êm dịu.
Hơn nữa, chỉ vì một mối tình thất bại mà đoạn tuyệt tình cảm thì quá cực đoan. So với cả một đời người, bốn năm bên Cố Hằng không đáng để tôi làm vậy.
Nên tôi không kháng cự rung động với Từ Phi Trì.
Dù sao thì, yêu không có lỗi — lỗi là do người.
Cố Hằng chỉ là một lỗi lầm tôi từng gặp trên đường đời. Đã buông bỏ rồi thì thôi, sau này thế nào cũng không còn liên quan đến anh ta nữa.
Tôi càng không đời nào đem một mối tình chân thành để đi trả thù anh ta.
Vì vậy, trước câu chất vấn đầy tự tin của Cố Hằng, tôi chỉ nhếch môi nhìn anh mỉa mai:
"Anh tự đề cao mình quá rồi, Cố Hằng."
Sắc mặt anh ta tái đi, môi mấp máy, giọng khàn khàn run nhẹ:
"Giang Tuế, anh biết là trước kia anh sai, vì cố chấp nên mới làm tổn thương em..."
"Nhưng bây giờ anh đã biết lỗi rồi, anh hiểu ra người anh thật sự yêu là em."
Trước vẻ mặt cố chấp của anh ta, tôi chỉ nhẹ nhàng cười:
"Vậy thì, Cố Hằng, giờ anh cũng có thể nếm thử cảm giác... người mình yêu, mỗi ngày mỗi đêm lại nhớ đến người đàn ông khác, là cảm giác thế nào rồi."
Con d.a.o năm xưa anh tự tay đ.â.m vào tim tôi, bây giờ đã quay lại, đ.â.m ngược vào chính anh.
12
Cố Hằng nói người anh ta yêu thực sự là tôi.
Thật lòng mà nói, khi nghe câu đó, trong lòng tôi không chút d.a.o động, thậm chí còn thấy buồn cười.
Nếu muốn phân biệt được bản thân yêu ai thật sự mà phải trả giá bằng cách làm người ta tổn thương thấu tim, vậy thì cái tình yêu đó với tôi là một sự sỉ nhục.
Huống hồ, cái “hiểu ra tình yêu” đó còn dựa trên nền tảng Tống Âm Âm lừa gạt và rời bỏ anh ta.
Sau đó, Cố Hằng vẫn tiếp tục dây dưa dai dẳng với tôi một thời gian dài.
Tôi không né tránh, cũng không nổi giận đuổi anh đi.
Dưới lầu công ty lúc nửa đêm, hay trước cổng khu tôi dưới trời mưa, anh muốn đứng thì cứ đứng, muốn đợi thì cứ đợi — bởi ngoài việc quấn lấy tôi như cái bóng, anh chẳng còn cách nào bước vào đời tôi nữa.
Dù chúng tôi vẫn còn là vợ chồng trên giấy tờ.
Lần nọ, anh lại tìm tôi, hỏi một câu:
"Giang Tuế, thật ra em cũng chưa từng yêu anh nhiều đến vậy, đúng không?"
Tôi không biết anh lấy tâm trạng thế nào mà nói câu đó. Tôi nhìn kỹ mặt anh, rồi hỏi ngược lại:
"Cố Hằng, anh còn nhớ mùa hè năm thứ hai sau khi cưới không?"
Cái mùa hè ve kêu inh ỏi ấy, một tối nọ, khi hai đứa đang ăn đồ nướng ở nhà hàng ngoài trời, chúng tôi gặp một nhóm người gây rối sau khi uống rượu.
Lúc hỗn loạn, tôi đã chắn giúp anh một chai bia vỡ bị đ.â.m tới.
Chiếc váy voan mỏng bị rách toạc, m.á.u từ vết thương bên hông tôi thấm ướt cả sơ mi trắng của anh.
Khi tôi tỉnh lại trong bệnh viện, việc đầu tiên nhìn thấy là Cố Hằng ngồi bê bết bên giường, mắt đỏ hoe, nắm tay tôi, giọng khàn khàn:
"Tuế Tuế, đừng thế nữa được không? Anh không thể chịu nổi khi thấy em bị thương..."
Lúc đó tôi chỉ cười yếu ớt:
"Đừng lo, không đau lắm đâu."
Thật sự là không đau lắm — so với vết thương anh ta để lại về sau, chẳng đáng gì.
Chúng tôi cùng chìm vào im lặng, bên tai là tiếng thở nhẹ run rẩy của anh. Cuối cùng, tôi thở dài:
"Cố Hằng, bốn năm trước, anh là người không ai thay thế được trong lòng tôi."
Một lúc lâu sau, anh như gắng gượng hỏi:
"Còn bây giờ thì sao? Giờ anh có còn so được với cậu ta không?"
Tôi nhìn anh chăm chú, rồi lắc đầu:
"Không, Cố Hằng. Bây giờ... anh không còn trong lòng tôi nữa."
Có lẽ đến lúc anh ta cùng đường tuyệt lối thật rồi. Anh cười chua chát, bắt đầu lôi chuyện gia đình ra:
"Nhưng Giang Tuế, em đã hứa với bà nội... sẽ sống tốt với anh mà."
Tôi im lặng mỏi mệt, không nói gì.
Chỉ lấy điện thoại ra, cho anh xem một bức ảnh — là lá thư bà để lại cho tôi.
Đại khái là:
"Nếu sau này Cố Hằng không tốt với con, thì con không cần do dự gì cả, cứ rời đi, đừng quay đầu lại."
Tôi từng nghĩ lá thư ấy sẽ mãi mãi không bao giờ dùng đến. Không ngờ, lại dùng tới những hai lần.
Lần đầu, tôi không kịp tỉnh ngộ, nên dây dưa quá lâu.
Lần thứ hai, chính là giây phút này đây.
Bên ngoài không biết từ lúc nào đã bắt đầu mưa lất phất.
Trời chiều âm u kéo xuống.
Gân xanh trên trán Cố Hằng khẽ nổi lên, nhưng cuối cùng không nói thêm lời nào, chỉ xoay người rời đi.
Bước chân vội vã, bóng lưng bối rối.