03
Nhưng đất Giang Nam rộng lớn, ta không họ hàng thân thích, cuối cùng cũng chỉ có thể lưu lạc làm kẻ ăn mày.
Khi còn yếu ớt, dung mạo xinh đẹp không phải là chỗ dựa, ngược lại chỉ càng khiến người ta nảy sinh ác ý.
Dù ta chỉ là một bé gái còn thơ dại, vẫn không biết bao nhiêu ánh mắt dơ bẩn của đám nam nhân lăm le muốn lừa gạt, xâm phạm, chà đạp ta.
Dù khoác lên mình áo quần quý giá hay che đậy dưới lớp mặt nạ giả nhân giả nghĩa, cũng chẳng thể che giấu được dục vọng thấp hèn trong ánh mắt đục ngầu ấy.
Ta chỉ đành dùng đất bùn bôi đen mặt mũi, làm cho bản thân mình lấm lem bẩn thỉu, may ra mới không đến nỗi ngay cả làm ăn mày cũng không sống nổi.
Vì muốn sống, ta từng quỳ gối xin ăn, từng bị người ta đánh đập như rác rưởi, từng tranh giành đồ ăn với chó hoang, từng ăn trộm lễ vật trên mộ phần, từng ngủ trong nghĩa trang, từng nằm nơi bãi tha ma hoang vắng.
Lâu gia chỉ có mình ta là nữ nhi, từ nhỏ đã được phụ mẫu và bốn ca ca cưng chiều hết mực, lớn lên trong nhung lụa, thân thể yếu mềm chẳng chịu nổi phong sương.
Dẫu trong lòng ôm mối hận ngập trời, không ngừng nhắc nhở bản thân phải sống, phải sống, dù phải làm chó cũng phải sống để báo thù, nhưng ta vẫn ngã bệnh.
Toàn thân nóng như lửa đốt, ngã quỵ bên vệ đường, rõ ràng sốt cao mà lại thấy lạnh đến tận xương tủy, áo quần rách rưới chẳng đủ giữ ấm, chỉ biết không ngừng run rẩy.
Ta nghĩ mình sẽ c.h.ế.c ở đó, nào ngờ khi tỉnh lại, đã thấy thân mình nằm trong một ngôi miếu đổ nát, có một thiếu niên chừng mười ba mười bốn tuổi đang đặt tay lên trán ta để dò nhiệt độ.
Thấy ta tỉnh lại, thiếu niên ấy mừng rỡ reo lên:
"Tỉnh rồi, tỉnh rồi, nó tỉnh lại rồi!"
Lập tức có bảy tám đứa trẻ, trai gái đủ cả, độ tuổi xấp xỉ ta, mặt vàng da bủng, quần áo rách rưới, vây lại quanh ta.
Chúng thi nhau kể, bọn chúng là những đứa trẻ ăn mày kết thành nhóm để nương tựa nhau, thiếu niên chăm sóc cho ta tên là A Cửu, là thủ lĩnh của bọn trẻ, chính hắn đã nhặt ta về.
Từ hôm ấy, ta không còn cô độc nữa, rốt cuộc cũng có đồng bạn bên mình.
Ban ngày chúng ta ra ngoài ăn xin, tối về lại tụ tập trong ngôi miếu đổ nát, cùng nhau chia chút đồ ăn xin được.
Giang Nam lúc bấy giờ gặp đại họa, dân chạy nạn dồn về các châu phủ ngày càng đông.
Nhưng các châu phủ ở Giang Nam đều đóng cửa thành không tiếp nhận dân chạy nạn, theo lệnh của Bố chánh sứ Giang Sơ Thành.
Bên trong thành, nhà giàu phú hộ thì chất đầy vàng bạc.
Bên ngoài thành, người c.h.ế.c đói nằm la liệt.
Tiếng kêu khóc thảm thiết của dân chạy nạn vọng qua tường thành cũng nghe rõ mồn một.
Mà trong thành, những kẻ quyền quý vẫn sống xa hoa, yến tiệc vui ca đêm ngày, thà để lương thực mốc meo cũng không chịu đem ra cứu nạn.
Chúng ta sợ bị coi là dân chạy nạn rồi bị đuổi khỏi thành, nên luôn vô cùng cẩn trọng, phần lớn thời gian chẳng xin được đủ đồ ăn, chỉ đành ôm bụng đói, nép sát vào nhau mà ngủ.
Mãi cho đến khi Hoàng thượng phái Thái tử đến cứu tế, tình thế mới dần khởi sắc.
Thái tử vừa tới Giang Nam, lập tức mạnh tay xử lý Bố chánh sứ Giang Sơ Thành cùng các quan lại cấu kết làm điều ác, cũng như những nhà giàu đầu cơ lương thực.
Hơn nữa, ngoại tộc của Thái tử, cũng là đại thế tộc số một Giang Nam—Chu gia—tự nguyện quyên tặng một lượng lớn lương thực để cứu tế, nhờ đó nạn đói ở Giang Nam nhanh chóng lắng xuống.
Ta cùng đồng bọn lẫn vào hàng người tị nạn để nhận cháo cứu tế.
Đó là lần đầu tiên ta được tận mắt trông thấy Thái tử Dung Dận.
Người ngồi giữa trại cháo, đích thân phát cháo cho dân, các quan viên thị vệ vây quanh như sao quây lấy trăng, nâng bước ngài ở giữa.
Diện mạo tựa thần tiên hạ phàm, khí chất ôn hòa nhã nhặn, lại khoác trên mình áo bào nguyệt bạch, nổi bật giữa đám dân chạy nạn tóc tai bù xù, thân thể bẩn thỉu, bốc mùi hôi thối chen chúc cùng một chỗ.
Ta đứng ngẩn ngơ nhìn, bất chợt bị một nam nhân trung niên đã nhận cháo rồi giật mất bát cháo trong tay, thân mình cũng bị xô ngã xuống đất.
Đang lúc ấm ức, Thái tử bước tới, đỡ ta dậy, sai người trừng phạt kẻ vừa cướp cháo, rồi lại đích thân múc cho ta một bát mới.
Ta dán mắt nhìn bàn tay múc cháo của ngài, những ngón tay thon dài trắng trẻo của ngài giờ đã lấm bẩn bởi bùn đất trên người ta, vậy mà trong mắt ta, bàn tay ấy vẫn thanh khiết như ngọc bạch đã được dâng hương trước Phật.
Giống như danh tiếng của ngài: Người quân tử ôm trong lòng cốt cách thanh cao, bước đi trên sương tuyết mà vẫn giữ mình thuần khiết.
Đêm hôm ấy, lần đầu tiên chúng ta không còn phải vắt óc nghĩ cách lấp đầy bụng, mà có thể ngồi quây quần bên đống lửa, chuyện trò thâu đêm.
Chúng ta bàn về nạn đói ở Giang Nam, bàn về vị Thái tử ôn nhuận như ngọc, bàn về Chu gia giàu có quyền thế, bàn về Bố chánh sứ tiền nhiệm Giang Sơ Thành—kẻ giờ đây đã trở thành tù nhân, sắp bị áp giải về kinh thành.
Bàn về chính mình, về quá khứ, về tương lai.
Có lẽ trong mắt thế gian, bọn ta—những đứa trẻ ăn mày, số phận mỏng manh như cỏ rác—mỗi ngày chỉ mong có thể xin được đủ đồ ăn, không để bụng đói; nhưng thực ra, mỗi người chúng ta đều có một giấc mơ.
Cẩu Tử muốn được đi học.
Tiểu Ngưu muốn trở thành một người buôn bán rong.
Nhị Nha mong tìm lại được phụ mẫu của mình.
Mẫn Nhi thì ước có ngày được lên kinh thành mở mang tầm mắt.
A Cửu muốn nhập ngũ, muốn trở thành đại tướng quân khai quốc mở cõi.
Hắn nói:
"Lúc trước ta từng ăn xin ngoài tửu lâu, nghe thấy ông kể chuyện trong đó kể một câu chuyện."
"Chuyện cụ thể thế nào ta không nhớ rõ, chỉ nhớ duy nhất một câu: ‘Vương hầu tướng tướng há phải do trời sinh?’"
"Ai nói ta là một đứa ăn mày thì sau này không thể làm đại tướng quân chứ?"
Lúc A Cửu nói những lời ấy, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt hắn, đôi mắt tự tin ấy càng thêm sáng rực.
Ta cũng tán thành:
"Phải, chỉ cần còn sống, tất cả đều có thể."
Hắn hỏi ta:
"A Nguyệt, còn ngươi thì sao?"
Ta ư?
Điều ta khao khát nhất, dĩ nhiên là báo thù rửa hận.
Trong lòng ta cũng nghĩ đến việc tìm Thái tử cầu cứu.
Thanh danh của Thái tử Dung Dận, ngay cả kẻ sinh trưởng ở Kinh Châu như ta cũng từng nghe qua.
Dung Dận là nhi tử thứ ba của đương kim Hoàng thượng, do tiên Hoàng hậu sinh ra.
Thánh thượng hết mực sủng ái Chu Hoàng hậu, người đã mất do khó sinh, bởi vậy càng vô cùng yêu thương đứa con duy nhất bà để lại.
Dung Dận lên ngôi Thái tử khi mới bảy ngày tuổi, từ nhỏ đã bộc lộ trí tuệ hơn người: năm tuổi đã biết làm thơ, bảy tuổi dâng bức “Thịnh Kinh Dạ Yến Đồ” mừng thọ Hoàng đế, chín tuổi săn thu tự tay bắn hạ chín con sói, mười tuổi vào triều quan sát chính sự, thường vi phục vi hành để thấu hiểu lòng dân, các chính sách đề xuất đều vì lợi ích lê dân bách tính, khiến triều đình kính phục, nhân dân yêu mến.
Thái tử nhân từ bác ái như thế, nhất định sẽ giúp ta.
Ta âm thầm toan tính trong lòng, chợt không đề phòng bị Nhị Nha đang đùa giỡn cùng Mẫn Nhi ở bên cạnh bổ nhào vào người.
Mẫn Nhi đuổi theo, chọc lét Nhị Nha, Nhị Nha cười khanh khách trong lòng ta, lăn lộn không ngừng.
Con bé nói:
"A Nguyệt, thật tốt quá."
Phải vậy, thật sự rất tốt.
Quãng ngày ấy tuy cơ hàn, áo không đủ che thân, cơm chẳng no bụng, nhưng lại là chuỗi ngày bình yên hiếm hoi sau khi nhà tan cửa nát.
Ta vẫn luôn cho rằng, bọn ta—đám ăn mày nhỏ bé này—có thể cứ thế nương tựa nhau mà sống, cho đến khi mỗi người bước lên con đường mơ ước của riêng mình.
Nhưng A Cửu đã bán đứng chúng ta.
Hắn muốn đi tòng quân, hắn cần tiền.
Hắn đem các bé trai bán vào hầm ngục khổ sai, các bé gái bán vào thanh lâu.
Thân phận ăn mày rẻ rúng, chẳng đáng được mấy đồng, hắn bán sạch mọi người mới gom đủ lộ phí.
Hắn cho ta một bài học xương m.á.u.
Thì ra, bằng hữu cũng chẳng thể hoàn toàn tín nhiệm, cho dù người ấy từng cứu mạng ta.