Tôi bỗng nhận ra, lông mày khóe mắt anh vốn cũng rất dịu dàng.
Hoá ra, anh cũng đẹp đến thế.
Một lúc lâu, anh vẫn chỉ lắc đầu:
“Không có gì đâu.”
Vẻ mặt anh thoáng giằng co.
Thêm một hồi nữa, như cuối cùng cũng hạ quyết tâm, anh mở miệng:
“Hồi đó anh để em dọn ra ngoài ở riêng.
Thật ra… không phải là muốn đuổi em đi.
Khi ấy bác sĩ tâm lý nói, tình trạng của em rất tệ.
Có lẽ em vừa chán ghét Ôn Viên Viên, cũng vừa chán ghét anh.
Đổi sang một nơi khác sống, sẽ tốt cho em hơn.”
Mắt tôi bỗng cay xè.
Tôi cúi đầu, không biết nên nói gì.
Giọng anh lại rất khẽ vang lên trên đỉnh đầu tôi:
“Thật ra… thật ra anh cũng chẳng từng thật sự ghét em.”
Tôi hiểu.
Anh cũng chỉ là không thể chấp nhận nổi mà thôi.
Trong người chúng tôi, cùng chảy một phần dòng m.á.u giống nhau.
Vì dòng m.á.u giống nhau đó, chúng tôi không buông nhau xuống được, nhưng cũng không thể thật sự bước lại gần nhau.
Bốn năm đại học, anh rất ít đến thăm tôi.
Đôi khi tôi bị cảm phải vào viện, vô tình gặp anh vài lần.
Tôi hỏi thăm, anh luôn né tránh, chẳng chịu nói nhiều.
Về sau nữa, tôi tình cờ nghe tin Ôn Viên Viên c.h.ế.t rồi.
Cô bé vừa sinh ra đã bị người nhà bỏ rơi.
Hình như bẩm sinh đã mang chứng trầm cảm, hoang tưởng nặng, không thể chữa khỏi.
Cô xem anh là người thân duy nhất, bài xích tất cả những ai muốn lại gần anh.
Cho đến khi cô càng lúc càng quá quắt, đâm bị thương một trợ lý của anh,
anh mới quyết tâm gửi cô vào viện phúc lợi.
Bên viện đối xử với cô rất tốt.
Nhưng cô vẫn chỉ ở được nửa năm, rồi nhảy lầu tự tử.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi vào làm ở một công ty rất tốt, bạn cùng bàn Tiểu Hí cũng kiếm được một công việc ổn.
Mới vào làm, tôi bận tối tăm mặt mũi, thường xuyên phải ở lại công ty tăng ca tới nửa đêm.
Một buổi chiều, lúc tôi đang quay cuồng với việc ở công ty, anh bỗng gọi điện cho tôi.
Không biết điện thoại bị tắt nguồn từ lúc nào.
Đợi đến khi tôi bận xong, mở máy lên thì đã là đêm khuya.
Tôi thấy cuộc gọi nhỡ của anh đã trôi qua hơn bốn tiếng.
Tôi gọi lại, bên kia không nghe.
Chỉ nhắn lại cho tôi một tin:
“Anh sang Na Uy dưỡng bệnh, chắc phải vài năm nữa mới về.
Nếu em gặp chuyện gì, có thể gọi cho người này.”
Cuối tin nhắn kèm theo một số điện thoại.
Tôi nhận ra đó là số của trợ lý anh, cũng là người bạn thân nhiều năm của anh.
Cuộc gọi mà anh dành cho tôi hôm ấy…
có lẽ là vì trước lúc đi, anh muốn gặp tôi một lần.
Từ lần đó trở đi, tin nhắn và cuộc gọi giữa hai anh em càng ít dần.
Cuối năm thứ hai đi làm, tôi được vào biên chế chính thức, lên tổ trưởng bộ phận.
Công việc dần dần không còn bù đầu như trước, Tiểu Hí cũng hiếm hoi có được kỳ nghỉ năm.
Cô rủ tôi cùng sang Na Uy ngắm cực quang.
Tôi muốn nghỉ ngơi, vốn chẳng có ý định đi.
Nhưng bất chợt lại nghĩ tới người kia – cũng đã sang Na Uy.
Lời từ chối đã lên đến miệng, cuối cùng biến thành một tiếng:
“Được.”
Tôi chợt nhận ra, tôi và anh đã rất, rất lâu rồi không liên lạc được với nhau nữa.
Ngày trước khi bay sang Na Uy, tôi thu dọn hành lý xong xuôi.
Nhìn lên giá sách, thấy chiếc cúp công ty tặng tôi.
Không hiểu sao, tôi đưa tay đặt nó vào trong va-li.
Hình như… là muốn mang cho anh xem một chút.
Đêm khuya, tôi bất ngờ nhận được điện thoại, báo tin anh đã c.h.ế.t.
24
Họ nói với tôi, ngay năm tôi vừa thi đậu đại học, anh đã được chẩn đoán mắc bệnh dạ dày nghiêm trọng.
Sau đó, bệnh dần dần chuyển thành ung thư dạ dày.
Người bên kia lại nói tiếp:
“Ông Lâm đã để lại toàn bộ di sản cho cô.
Nếu cô có thời gian, phiền cô sớm tới ký hồ sơ.”
Đông về, ngoài cửa sổ gió rít từng hồi.
Trong màn tối mù, bóng cây in trên kính cửa méo mó vặn vẹo, như bóng ma lẩn khuất.
Tôi cầm điện thoại, thật lâu không hoàn hồn nổi.
Tôi chợt nghĩ, ở Na Uy, an tử là hợp pháp.
Có lẽ anh sang đó, không phải để chữa bệnh.
Tôi đưa tro cốt anh về nước, lo liệu hậu sự cho anh.
Một đêm khuya nọ, tôi đến chỗ anh từng sống, dọn dẹp di vật của anh.
Trong giá sách của anh, tôi tình cờ nhìn thấy một tờ giấy vẽ.
Đó là bức tranh nhiều năm trước, khi tôi còn ở đây, đã vẽ căn nhà trong mơ của mình.
Tường màu hồng, trên bàn học là những quyển sách sạch sẽ, bậu cửa sổ có những chậu hoa xinh đẹp.
Thì ra, anh đã nhìn thấy.
Sống mũi tôi cay buốt.
Tôi run tay, tiếp tục thu dọn đồ đạc của anh.
Giữa những chồng sách chất chồng, bỗng có một tờ giấy thư đã ố vàng rơi ra từ một cuốn sách.
Nét chữ trên đó đã nhòe đi.
Một kiểu chữ mềm mại, ngay ngắn, đã phai màu rất nhiều:
“Không tin thì đi tìm Lâm Dụ, hỏi anh ta.”
Tôi nhớ lại những lời năm xưa anh nói với tôi trong đau đớn:
“Cô ấy không tin, nên lên sân thượng tìm anh.
Rồi bệnh phát, từ đó ngã xuống.”
Dưới hàng chữ ngay ngắn ấy là một kiểu chữ khác – nét bút quen thuộc nhất với tôi, dứt khoát mà vẫn ôn hòa:
“Anh tới tìm em.”
Rạng sáng, gió mang theo nắng, lùa qua khung cửa sổ chưa từng đóng kín.
Ánh nắng lặng lẽ lướt qua mặt tờ giấy.
Tôi nghĩ, chắc họ đã cùng nhau bước vào ánh sáng rồi.
Tôi rời khỏi căn nhà ấy.
Quay người, đóng cửa lại, phong kín cả nó và mọi thứ bên trong.
Bước ra khỏi sân trước, tôi bỗng nhớ tới…
Nhiều năm về trước, trong một đêm tối, tôi ngủ trong phòng anh.
Anh pha thuốc cho tôi, đặt những viên thuốc vào lòng bàn tay tôi trong im lặng.
Rất lâu sau, anh khẽ thở dài một tiếng:
“Thôi vậy.
Lâm Trì, sau này em hãy lớn lên cho tử tế.”
(Hết)
Bình luận