07.
Chớp mắt đã hai năm trôi qua.
Dưới sự dạy dỗ của Chu tiên sinh và sự giám sát ngày này qua ngày khác của ta, cha ta rốt cuộc cũng thoát thai hoán cốt.
Tuy còn cách bậc "kinh luân đầy bụng" rất xa, song ít nhất bây giờ, ông đã có thể thuộc làu một chương Luận Ngữ, cũng có thể múa bút đề vài bài thơ tếu táo cho ra thể thống.
Quan trọng hơn cả, khí chất ăn chơi lêu lổng nơi ông đã nhạt đi nhiều, thay vào đó là chút hương vị thư sinh nho nhã.
Vận áo dài xanh, đứng yên một chỗ, nhìn cũng ra dáng công tử phong lưu.
Năm ấy, triều đình mở ân khoa.
Tổ mẫu và ta bàn bạc, quyết định để cha thử sức một phen.
Ông vừa nghe đã lắc đầu quầy quậy:
"Không được không được! Với chút mực cạn của ta, đi thi chẳng phải tự rước nhục vào thân sao?"
Ta lấy tập "Tổng hợp thời luận chính sách" do tự tay mình sưu tầm, kết hợp chỉ điểm của Chu tiên sinh cùng biến động triều chính mấy năm nay, đập mạnh xuống bàn trước mặt ông:
"Cha, đây là những câu trọng điểm con chọn cho cha. Chỉ cần học thuộc mấy thứ này, không dám nói đỗ cao, nhưng qua được kỳ thi đầu thì không thành vấn đề."
Ông nhìn chồng giấy dày cộp, sắc mặt trắng bệch:
"Nhiều thế này? Văn Nhi, con muốn cha sớm bỏ xác đấy à!"
Ta nghiêm mặt lại:
"Nếu cha không đi, con sẽ báo với tổ mẫu, nói cha muốn tới... Bình Khang phường!"
Bình Khang phường là chốn ăn chơi nổi danh nhất kinh thành, cũng là nơi cha ta mê nhất hồi trước.
Ông rùng mình, lập tức giành lấy xấp giấy, vẻ mặt chính khí lẫm liệt:
"Ai bảo ta không đi? Làm cha thì phải làm gương! Thi đồng sinh thôi mà, chuyện nhỏ!"
Nhìn ông ba chân bốn cẳng chạy về thư phòng ôn tập, ta chỉ biết lắc đầu ngao ngán.
Ông đúng là loài lừa, kéo thì không đi, mà đánh thì lại nhảy.
Đến ngày thi, cả nhà ta – ta, tổ mẫu và cả mẫu thân – đều cùng nhau tiễn ông ra tận cổng trường thi.
Ông hồi hộp đến mồ hôi túa ra, chân tay run lẩy bẩy.
Ta kiễng chân giúp ông chỉnh lại cổ áo, nhỏ giọng động viên:
"Cha đừng sợ, coi như vào làm bài tập thôi, biết gì viết nấy là được."
Ông hít sâu một hơi, gật đầu, rồi vừa đi vừa ngoái lại nhìn ba lần mới chịu bước vào trường.
Cả nhà ta ở ngoài đợi trong thấp thỏm.
Ba ngày sau, bảng vàng yết tên.
Lúc gia nhân từ ngoài chạy về, vừa chạy vừa hét:
"Lão gia đỗ rồi! Lão gia là án thủ!"
Tổ mẫu ta kích động suýt ngất xỉu.
Mẫu thân ta cũng mừng đến phát khóc.
Chỉ mình ta bình tĩnh thở phào.
Ta biết, đây mới chỉ là khởi đầu.
Đường phía trước, còn rất dài.
Cha ta được mọi người vây quanh trở về, vẫn còn chưa hết bàng hoàng.
Ông nhìn tên mình "Lâm Diễn" to tướng trên bảng, véo mạnh má, lẩm bẩm:
"Ta... ta đỗ thật rồi? Lại còn là án thủ?"
Ông chẳng thể tin nổi, kẻ ăn chơi như mình mà cũng đỗ được công danh.
Đêm ấy, cả Lâm phủ mở yến tiệc linh đình, khách khứa tấp nập.
Cha ta bị chuốc rượu đến say khướt, ôm lấy ta, vừa khóc vừa cười.
"Văn Nhi, cha... cha làm được rồi... cha không khiến con phải mất mặt..."
Ta vỗ nhẹ lưng ông, khẽ nói:
"Cha, cha rất giỏi. Mà đây mới chỉ là bắt đầu thôi."
Ông nửa say nửa tỉnh nhìn ta, ngây ngô cười khờ.
Ta biết, từ giây phút này, trong lòng ông, hạt giống mang tên "cầu tiến" rốt cuộc cũng bắt đầu nảy mầm.
08.
Thi đỗ đồng sinh, chỉ mới là bước chân đầu tiên trên con đường làm quan.
Sau đó còn phải trải qua viện thí, hương thí, hội thí, rồi đến điện thí.
Mỗi một cửa ải đều chẳng khác nào vạn mã tranh qua cầu độc mộc, một mất một còn.
Tuy cha ta đã khởi đầu thuận lợi, nhưng về sau rõ ràng có phần đuối sức.
Ông tư chất thường thường, lại chẳng phải hạng người miệt mài dùi mài kinh sử từ nhỏ, nên nhược điểm căn cơ yếu lộ rõ rất nhanh.
Chu tiên sinh chẳng biết bao lần thở dài với ta:
"Tiểu thư, lệnh tôn có thể đỗ được án thủ đã là may mắn trời cho. Đường về sau, chỉ e càng thêm gian khó."
Nhưng ta lại không nghĩ như vậy.
Đường khoa cử, khảo nghiệm không chỉ là tài học, mà còn là tâm tính, mưu lược, thậm chí vận khí.
Cha ta ở mặt học vấn có lẽ không bằng người khác, nhưng ta lại nắm giữ thứ người đời không có — tin tức từ tương lai.
Ta bắt đầu chủ ý dẫn dắt cha quan tâm đến một số lĩnh vực đặc biệt.
Tỉ như, ta biết ba năm nữa, Hoàng Hà sẽ vỡ đê, triều đình sẽ lấy chủ đề "trị thủy" để ra đề trong kỳ điện thí.
Ta bèn sưu tầm thật nhiều sách vở, thư tịch về các công trình thủy lợi của các triều đại, bắt cha nghiên cứu kỹ càng.
Cha ta than trời trách đất:
"Văn Nhi ơi, mấy thứ này vừa khô khan vừa khó nuốt, liên quan gì tới chuyện thi cử chứ?"
Ta nghiêm mặt đáp:
"Cha, đừng hỏi nữa. Con bảo xem thì cứ xem đi. Học nhiều chẳng thiệt bao giờ."
Ngoài việc "đặt tủ đề", ta còn bắt đầu mở đường cho cha.
Nhà họ Lâm vốn xuất thân võ tướng, song năm xưa tổ phụ ta từng giữ chức Thượng thư Bộ Binh, trong triều cũng có không ít nhân mạch.
Chỉ là sau khi tổ phụ qua đời, cha ta không ra gì, những mối quan hệ ấy dần dần nhạt phai.
Giờ là lúc phải nhặt lại tất cả.
Ta nhờ tổ mẫu lấy danh nghĩa của ta, gửi thiếp mời tới những đồng liêu, môn sinh cũ của tổ phụ, tổ chức một buổi "thưởng hoa yến".
Trong yến hội, ta – đứa trẻ bảy tuổi được mệnh danh "thần đồng" – liền trở thành tiêu điểm.
Ta làm thơ tại chỗ, đối cờ cùng đám thiếu niên tự xưng tài tử, thậm chí còn dám mạnh dạn bày tỏ vài ý kiến non nớt song sắc bén về tình hình thời sự trước mặt chư vị đại nhân.
Mọi người đều bị thần đồng nhỏ tuổi là ta làm kinh ngạc.
Sau buổi yến tiệc ấy, trong kinh thành bắt đầu lưu truyền một câu:
"Sinh con nên như lang nhi nhà họ Lâm, sinh nữ nên như Lâm Văn Nhi."
Nửa đầu là nói về cha ta – tấm gương lãng tử quay đầu.
Nửa sau chính là dành cho ta – "tiểu tài nữ" danh chấn kinh thành.
Nhờ buổi yến tiệc này, nhà họ Lâm lại lần nữa trở thành tâm điểm của giới quyền quý kinh thành.
Còn cha ta, cũng nhờ cái danh "cha thần đồng" mà quen biết không ít sĩ tử trẻ tuổi đầy học vấn.
Trong số đó, có cả kẻ tử địch kiếp trước của ông, cũng là người sau này trở thành thủ phụ nội các – Ngụy Nhiên.