21.
Sau khi Lý Vĩ rời đi, quan trường Tô Châu gió thổi cỏ lay.
Cha ta rõ ràng cảm nhận được mình bị cô lập.
Những thuộc hạ trước kia cung kính nịnh nọt, nay đều né tránh như tránh tà.
Các mệnh lệnh của ông cũng bị ngáng trở khắp nơi, ngoài mặt tuân theo mà trong bụng chống đối.
Ta biết, đây là do phe Thái tử và Tam hoàng tử liên thủ chèn ép nhà ta.
Tuy là đối đầu, nhưng trong chuyện trừ khử "kẻ lạc loài", hai bên lại đồng tâm hiệp lực.
Cha ta cuống lên, lo lắng đến mức miệng phồng rộp.
"Văn Nhi, phải làm sao bây giờ? Nếu cứ thế này, chức tri phủ của cha cũng chỉ còn cái danh thôi!"
Ta thì bình tĩnh hơn ông nhiều.
"Cha, đừng vội. Họ nhanh, mình càng phải nhanh hơn."
"Sao lại thế?"
"Trước khi họ hoàn toàn gạt bỏ mình, chúng ta chủ động nhảy ra ngoài."
Ta lấy bút mực, soạn một bản tấu sớ nháp.
"Cha, cứ chép lại theo đây, rồi cho người dùng tám trăm dặm cấp báo gửi về kinh thành."
Cha cầm tờ nháp lên nhìn, hoảng hồn:
"Gì cơ? Tự xin điều đi Tây Bắc? Văn Nhi, con điên rồi à! Đó là nơi chim còn chẳng buồn ỉa, hoang vu lạnh lẽo nhất Đại Chu!"
Tây Bắc là vùng đất nghèo khổ, rối ren bậc nhất Đại Chu.
Không chỉ thiên tai liên miên, mà còn bị ngoại tộc quấy nhiễu, làm quan ở đó chẳng khác nào đi chịu c.h.ế.c.
Ta nhìn ông, ánh mắt kiên quyết:
"Cha, hãy tin con. Nơi nguy hiểm nhất, đôi khi lại là nơi an toàn nhất.
Kinh thành và Giang Nam là đất phe Thái tử và Tam hoàng tử, ở đó ta không đấu nổi bọn họ. Chỉ có đi Tây Bắc, chốn mà họ chẳng buồn đếm xỉa tới, nhà mình mới có thể thở ra, mới thực sự gây dựng được thế lực riêng."
Hơn nữa, ta còn nhớ rõ, kiếp trước, chỉ hai năm nữa thôi, Tây Bắc sẽ phát hiện ra một mỏ bạc lớn.
Chính mỏ bạc này sau này đã trở thành nguồn kinh tế chủ yếu để Thái tử mở rộng thế lực.
Kiếp này, ta quyết phải đoạt lấy công trạng đó, dâng tặng cha!
Cha do dự mãi, cuối cùng cũng cắn răng quyết định:
"Được! Cha nghe con. Cùng lắm thì... coi như đi ăn cát cũng được!"
Tấu sớ gửi đi, triều đình quả nhiên xôn xao.
Ai nấy đều cho rằng Lâm Diễn bị điên.
Có nơi phồn hoa Giang Nam không ở, lại nhất quyết lên Tây Bắc thổi gió bấc.
Thái tử và Tam hoàng tử cũng lấy làm khoái chí.
Bọn họ xem ra, Lâm Diễn này là tự tìm đường c.h.ế.c, khỏi phải nhọc công ra tay.
Thế là, dưới sự "ngầm đồng thuận" của hai phe, Hoàng đế lập tức phê chuẩn lời thỉnh cầu của cha ta.
Một đạo điều lệnh ban ra — Lâm Diễn, từ tri phủ Tô Châu, điều đi làm tri châu Lương Châu.
Bị giáng một cấp, đày ra biên cương.
Tất cả mọi người đều tưởng rằng, quan lộ của Lâm Diễn đến đây là chấm dứt.
Ai nấy đều chờ xem nhà họ Lâm sẽ thành trò cười ra sao.
Nào ngờ đâu, một cơn bão lớn hơn, đang âm thầm tích tụ nơi Tây Bắc.
22.
Đường tới Lương Châu, còn gian nan hơn tưởng tượng của chúng ta rất nhiều.
Dọc đường chỉ thấy cát vàng mịt mù, gió rét thấu xương, màn trời chiếu đất.
Tổ mẫu cùng mẫu thân ta đều chịu không nổi, mấy lần lâm bệnh.
Cha càng xót xa khôn xiết, nhiều lần hối hận, nói chẳng nên nghe lời ta làm gì.
Nhưng ta thì vẫn vững tâm như sắt.
Ta hiểu rõ, nhà ta giờ không còn đường lui nữa.
Tới nơi rồi, cảnh tượng trước mắt càng khiến người ta lạnh sống lưng.
Thành trì tan hoang, phố xá tiêu điều, dân chúng ai nấy da vàng gầy guộc, áo quần tả tơi.
Nơi này nào còn ra dáng một châu phủ, thậm chí chẳng bằng trại tị nạn.
Vị tri châu tiền nhiệm vốn là kẻ tham quan, sớm đã vét sạch đến tận gốc rễ, nghe tin nhà ta đến liền ôm bạc trốn chạy trong đêm.
Thứ cha ta được giao lại chỉ là một kho phủ trống rỗng, cùng một đám dân đói rét chực chờ cứu tế.
Cha ta nhìn bãi chiến trường trước mắt, suýt nữa khóc tại chỗ.
"Văn Nhi, thế này... thế này thì biết làm sao bây giờ?"
Ta nắm tay ông, nhìn về dãy núi Kỳ Liên xa xa, đôi mắt sáng ngời:
"Cha, đừng sợ. Nơi này tuy nghèo, nhưng dưới chân đều là báu vật.
Nhà ta sắp phát tài rồi!"
Thứ báu vật ta nói, chính là mỏ bạc kia.
Theo ký ức kiếp trước, mỏ bạc ấy nằm sâu trong một thung lũng ở dãy Kỳ Liên.
Nhưng ta không thể nói thẳng ra.
Vẫn là dùng chiêu cũ: "mộng thần linh".
Đêm đó, ta "nằm mộng" thấy thần núi báo mộng, rằng trong núi Kỳ Liên có thần vật cứu rỗi dân chúng Lương Châu.
Cha ta nay vốn đã tin sái cổ vào những lần "thần tiên báo mộng" của ta.
Hôm sau, ông đích thân dẫn một đội người ngựa, rầm rộ vào núi tìm báu vật.
Còn ta ở lại trong thành, bắt đầu nghĩ cách giải quyết chuyện cơm áo trước mắt.
Lương Châu tuy đất đai cằn cỗi, chẳng trồng được lúa mạch, nhưng lại thích hợp nhất để trồng một thứ — khoai tây.
Khoai tây là vật du nhập từ ngoài, thời này chưa ai biết đến.
Nhưng ta biết, loại này sản lượng cao, dễ trồng, là cứu tinh giải đói chân chính.
Ta đã sớm nhờ các thương đội mang về một ít giống khoai tây từ hải ngoại.
Ta lấy tiền riêng thuê dân trong thành, khai khẩn đất hoang, tự mình chỉ dạy họ cách trồng khoai.
Dân chúng ban đầu bán tín bán nghi, nhưng vì có tiền công nên cũng đành làm theo.
Ai nấy đều cho rằng, nhà tri châu mới đến của chúng ta đều là một lũ điên.
Một người thì chạy vào núi tìm thần tiên, một người thì vùi đầu trồng thứ củ lạ dưới bãi cát.
Thế nhưng, chỉ ba ngày sau, cha ta đã trở về.
Ông đầy mình bùn đất, mặt mày hân hoan như điên, lao thẳng vào phòng ta.
"Tìm được rồi! Văn Nhi! Thật sự tìm được rồi! Một mỏ bạc lớn lắm!"
Trong tay ông, là một khối ngân thạch lấp lánh sáng bạc, là loại tuyết hoa thượng hạng.
Ta mỉm cười.
Ta biết, thời cơ đổi đời của nhà họ Lâm, đã tới rồi.