Tuy nhiên, bác sĩ nói với chúng tôi rằng khoản tài trợ không hề dừng lại. Tôi cũng không muốn truy cứu nữa—anh ta muốn tài trợ thì cứ tài trợ. Khi gánh nặng kinh tế nhẹ đi, tôi có nhiều thời gian hơn để ở bên và chăm sóc Tề Minh. Chỉ là cơ thể anh mỗi ngày một tệ; bác sĩ cũng dặn tôi phải chuẩn bị tinh thần cho điều xấu nhất.
Đó là một buổi chiều nắng dịu. Sau giấc trưa, Tề Minh tỉnh dậy, tinh thần hiếm hoi tốt lạ thường, anh bảo tôi đẩy anh ra vườn phơi nắng. Trong khu vườn của bệnh viện, muôn hoa rực rỡ đua nhau nở. Tề Minh hái một đóa đưa cho tôi: “Noãn Noãn, anh hình như chưa từng tặng em hoa. Đóa này tặng em—đừng chê nhé.”
Tôi lắc đầu, mỉm cười nhận lấy.
Anh nói tiếp: “Điều may mắn nhất đời anh là gặp được em. Những năm qua anh rất hạnh phúc. Đóa Đóa cũng rất thích em. Nếu còn có kiếp sau… anh mong có một thân thể khỏe mạnh, để đi cùng em đến cuối cùng…”
Giọng anh mỗi lúc một nhỏ, như đang rời xa tôi dần. Tôi hốt hoảng gọi bác sĩ; họ lập tức cấp cứu. Cuối cùng, bác sĩ bảo đã cố hết sức—đời Tề Minh đã đến điểm tận.
Tôi và Đóa Đóa đứng cạnh giường bệnh; Đóa Đóa khóc đến kiệt sức. Còn tôi, không rơi nổi một giọt nước mắt. Có lẽ như người ta nói, buồn đến cực điểm thì nước mắt cũng cạn.
Anh gom chút sức lực cuối cùng, dặn dò nốt: nắm tay tôi, bảo tôi chăm sóc tốt cho Đóa Đóa, cho chính mình. Anh muốn hai mẹ con sống thật tốt, thay anh đi xem những nơi anh chưa kịp thấy, nếm những món anh chưa kịp ăn. Tôi gật đầu đồng ý. Tôi và Đóa Đóa nhất định sẽ sống cho ra sống—kiên cường, can đảm mà bước tiếp. Anh cuối cùng cũng yên lòng khép mắt.
16
Tôi mang hũ tro cốt của Tề Minh và Đóa Đóa trở về quê nhà. Điều ước cuối cùng của anh… là được về nhà.
Tôi chuộc lại quán cơm ngày xưa—nơi chất đầy kỷ niệm hạnh phúc của chúng tôi—tôi không nỡ để người khác lấy đi.
Tôi giữ trọn lời hứa với Tề Minh: chăm Đóa Đóa thật tốt, nuôi dạy con nên người. Ngày nối ngày lẳng lặng trôi đi. Cho đến khi một cú điện thoại phá vỡ bình yên.
Là Ngô ma gọi tới. Ngô ma là quản gia/giúp việc ở nhà Bùi Dịch Sâm, làm nhiều năm rồi. Những năm tôi nuôi Bùi Niệm Dương, nếu không có Ngô ma phụ, tôi còn khổ hơn nữa. Tôi rất biết ơn bà; cuộc gọi của bà tôi không thể không nghe.
“Phu nhân, cô có thể về một chuyến không?” Giọng Ngô ma hối hả.
“Ngô ma, tôi không còn là phu nhân nữa. Có chuyện gì vậy ạ?”
“Ông chủ gặp tai nạn xe, chân bị thương không đi được.” Giọng bà càng lúc càng gấp: “Cậu chủ nhỏ ngày nào cũng đòi tìm cô, đến học cũng không chịu đi.”
Giọng Ngô ma mang theo van nài: “Cô có thể qua xem hai cha con họ một chút không… tôi xin cô…”
Tôi không nỡ làm khó Ngô ma, bèn dắt Đóa Đóa trở lại Cẩm Thành.
Lâu ngày không gặp, trên mặt Bùi Dịch Sâm đã không còn vẻ hùng hổ như trước. Anh ta ngồi trên xe lăn, bộ dạng tiều tụy. Sau khi tôi rời đi, anh ta đêm nào cũng mượn rượu giải sầu, cuối cùng say lái mà gặp tai nạn. Bác sĩ chẩn đoán chân bị thương nặng, có thể cả đời gắn với xe lăn. Với một cậu ấm chưa từng vấp ngã, đó là cú đánh trời giáng.
Còn Bùi Niệm Dương vì bị cha bỏ mặc, cũng bắt đầu nổi loạn: ban đầu giả bệnh xin nghỉ, sau lì lợm hơn, thẳng thừng bỏ tiết. Thầy cô bó tay—dù sao nó cũng là đứa không ai quản.
Thấy tôi, Bùi Dịch Sâm ngạc nhiên: “Sao em lại tới? Anh tưởng cả đời này em không muốn thấy anh nữa.”
Tôi cười lạnh: “Vốn dĩ tôi không định tới—chỉ muốn xem anh thê thảm ra sao thôi. Nhìn anh ra nông nỗi này—anh có biết tôi hả hê cỡ nào không!”
Tôi tiến sát, nhìn thẳng: “Bộ dạng nửa người nửa ma này của anh buồn cười lắm. Hoặc sống cho ra con người, hoặc là đừng sống!”
Tôi cố tình kích anh ta—tôi biết người kiêu ngạo như anh ta khó nuốt nhục. Đạt được mục đích, tôi định đi, anh ta lại níu giữ: “Có thể cho anh thêm cơ hội không—vì anh và con, hãy ở lại!”
Đáng lẽ tôi nên từ chối ngay, nhưng tôi đồng ý—vì tôi còn tính toán khác.
17
Tôi nhớ lời hứa với Tề Minh: chăm sóc Đóa Đóa cho thật tốt. Nhưng môi trường và giáo dục ở thị trấn không bằng thành phố. Tôi có thể thiệt thòi bản thân, nhưng không thể để Đóa Đóa chịu thiệt. Vì vậy, tôi nhận lời Bùi Dịch Sâm, điều kiện là Đóa Đóa phải theo chúng tôi sống cùng. Anh ta sảng khoái đồng ý.
Ban đầu tôi muốn đón ngoại lên, nhưng người già quen nếp quê nhà, lên thành phố lại khó thích nghi, nên tôi không ép.
Chúng tôi lại sống ở biệt thự của Bùi Dịch Sâm như trước. Chỉ là tôi không còn đổ toàn bộ tâm sức vào hai cha con họ như xưa.
Con trai tôi Bùi Niệm Dương, giống hệt cha nó, là chủ nghĩa vị kỷ tinh tế. Ngày trước chỉ vì mấy ơn huệ lặt vặt của Phương Vũ Nhu, nó đã làm ngơ mọi điều tôi làm cho nó. Về sau, khi Phương Vũ Nhu đạt mục đích kết hôn với Bùi Dịch Sâm, cô ta mất hết kiên nhẫn lẫn nhiệt tình với nó. Lúc ấy Bùi Niệm Dương mới chợt nhớ đến cái tốt của tôi—tiếc rằng đã quá muộn.
Giờ tôi chỉ muốn yêu lấy mình, yêu Đóa Đóa, nuôi Đóa Đóa nên người.
18
Mười tám tuổi, Đóa Đóa đỗ đại học ở nước ngoài. Tôi biết đã đến lúc phải rời đi. Tiễn Đóa Đóa lên máy bay xong, tôi trở về biệt thự. Tôi mở va-li, thu dọn đồ đạc cá nhân.
Bùi Dịch Sâm lái xe lăn điện tới, nhìn tôi: “Em định đi đâu?”
“Tới nơi em cần đến.” Tôi vẫn cúi đầu sắp xếp.
Bùi Dịch Sâm bất ngờ cúi người nắm tay tôi: “Ngần ấy năm rồi, em vẫn không thể tha thứ cho anh sao? Có thể… ở lại không?”
Tôi gạt tay anh ta: “Bùi Dịch Sâm, chuyện cũ hãy để nó qua.” Tôi dừng một nhịp: “Thực ra anh đã khỏi chân rồi—vài lần nửa đêm tôi dậy uống nước, thấy anh tự đi từ nhà vệ sinh ra.”
Anh ta chột dạ sờ mũi.
Tôi nói tiếp: “Anh nghĩ kiểu sống chỉ có thương hại mà không có yêu này duy trì được bao lâu? Hãy tha cho nhau.”
Anh ta lặng im. Rồi đứng dậy, quay lưng: “Nếu muốn quay về, bất cứ lúc nào em cũng có thể về. Anh… sẽ luôn đợi em.”
Tôi trở lại thị trấn quê nhà. Nhìn bức ảnh Tề Minh mỉm cười trên bia mộ, nước mắt tôi không kìm được: “Tề Minh, em về rồi.”
Chúng ta sẽ không xa nhau nữa.
(Hoàn)
Bình luận