6. Ngụy Nghiệp Chiêu lúc ấy uất ức khôn cùng. Chàng nghiến răng nghiến lợi, đem hết nỗi ủy khuất dồn lên người ta. Chàng nói, cái cô nương Trịnh Nguyệt Hằng kia, hết lần này tới lần khác tìm chàng luận bàn thi từ ca phú. Chàng vốn học tập đã cực nhọc, nay lại thêm nàng ấy đến dây dưa, khiến chàng tâm lực hao tổn, áp lực càng sâu. Một khi chàng tỏ ý không kiên nhẫn, nàng liền mượn miệng Phúc Khánh công chúa – vị tiểu cô đi theo bên mình – ép chàng phải dỗ dành, không tiện chối từ. Ngụy Nghiệp Chiêu tự nhận mình hiếu thuận với trưởng bối, lại là người hiền lành, chẳng nỡ làm tổn thương chí tiến thủ của nàng. Thế nên mới tâu xin bệ hạ mở lớp nữ học trong cung, để mọi người cùng học, để chàng không bị quấn lấy. Nào ngờ, tri thức nàng càng rộng, câu hỏi càng nhiều, khiến chàng mỗi lần đi lại trong cung đều như kẻ trộm lẩn tránh, sợ gặp phải nữ tử này. Kết quả, nàng còn trực tiếp đưa cho chàng một quyển thi tập, nhờ chàng chỉnh sửa. Chàng bảo: phu thê vốn đồng tâm đồng lực, lẽ nào ta có thể khoanh tay đứng nhìn? Trong lòng ta vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ. Phu quân nhà ta rõ ràng không hiểu phong tình, mà ta cũng chẳng thể chỉ ra cho chàng thấy mùi hương ẩn sau thi từ ấy. Cuối cùng đành cùng chàng tham dự việc “chỉnh sửa thi tập” này. Hai người bàn bạc suốt nửa đêm, rốt cuộc do chàng chấp bút, ta đề danh, đối thơ của Trịnh Nguyệt Hằng mà bình phẩm. Đặc biệt còn nghiêm nghị chê rằng: “Dùng từ quá hoa mỹ, dễ khiến người đọc sinh mệt mỏi.” Bản thi tập ấy trả về, quả nhiên khiến nàng ngộ ra điều gì đó, từ đó ẩn mình học vấn, chẳng còn tới quấy rầy. Nhưng cuộc hôn nhân của ta và chàng, từ đây lại gặp phong ba mới. Tai ương này, lại do chính Hoàng đế Hồng Đức giáng xuống. Một ngày trời trong gió thuận, bệ hạ đột ngột triệu kiến chúng ta. Lúc ấy, người bệnh tật triền miên, tính khí nóng nảy, khiến lòng ta thấp thỏm bất an. Quả nhiên, vừa quỳ xuống, bệ hạ liền ném thẳng vào mặt chúng ta một đống đồ. Có sách, có họa tập, muôn hình vạn trạng, mà toàn điều chẳng tiện nói ra. Chúng ta thẹn đỏ mặt, không dám ngẩng đầu. Ngụy Nghiệp Chiêu vừa hổ thẹn vừa hoảng, lập tức cúi đầu tạ tội. Ta thì ngược lại, bỗng nhiên sáng tỏ nguyên nhân. Nếu nói đêm tân hôn chàng chỉ như tân binh ngô nghê, thì nay chàng đã thành tướng quân dạn dày trận mạc – chẳng phải thiên tư kỳ ngộ, mà là khổ luyện sau lưng ta. Chàng quỳ giữa một đống sách trong phòng, cả người rũ rượi, không dám ngẩng mặt. Bệ hạ chẳng nói lời nào, chỉ phất tay áo. Lập tức một đoàn ngự y ùa lên, lần lượt chẩn mạch. Kết quả: phu thê ta, chẳng có chứng bệnh gì. Lúc này bệ hạ mới giận dữ quở trách, chúng ta mới hiểu ngọn ngành. Hóa ra, nguyên do từ sự “hiền thục” của ta. Ta noi gương Thái tử phi, chăm chút ăn uống cho chàng. Nhưng chàng lại nghĩ, ta cho chàng bổ dưỡng, là vì chê chàng bất lực. Thế là chàng ngấm ngầm nỗ lực, luyện tập không thôi. Bởi vậy bên ngoài mới rộ lên tin đồn —— Hoàng Thái tôn, bất lực sao? Mà chính đương sự, lại luôn là kẻ hay hay biết sau cùng. Đến khi bị bệ hạ gọi đến trách mắng, ta và chàng mới vỡ lẽ. Khuôn mặt chàng khi trắng khi đỏ, biến đổi liên hồi, quả là một cảnh tượng hiếm có. Bệ hạ trách chúng ta là kẻ trẻ tuổi tâm tư nhơ bẩn, rồi giáng phạt: Đưa ra ngoài thành, tới chùa Phật mà ở một thời gian. Bản chất, cũng là một chuyến “du hành tẩy tâm”: mượn Phật lý uyên thâm và sơn thủy thanh tịnh mà gột rửa tâm tính. Ngôi chùa nằm dưới chân núi, ẩn trong bạt ngàn xanh biếc. Vì là hoàng gia tự viện, vốn khách khứa chẳng đông, tăng nhân thong dong, giờ lại vì chúng ta mà thêm bao phiền toái. Chúng ta chiếm hai viện, cao tăng mỗi ngày phải giảng pháp cho chúng ta, Phật tổ mỗi ngày đều nghe chúng ta cảm ngộ, thỉnh cầu. Mà Ngụy Nghiệp Chiêu, trong lĩnh hội Phật lý, thường đi chệch đường. Ví như khi đại sư giảng “ngũ uẩn giai không”, ta ngộ ra, lòng thanh tịnh, thậm chí muốn quy y cửa Phật, đoạn tuyệt hồng trần. Còn chàng, lại chau mày mà hỏi: “Nếu Phật tổ ngũ uẩn giai không, sao còn cần chúng ta dâng công đức? Nếu Ngài để tâm, tức chẳng phải không; nếu Ngài chẳng để tâm, thì cần gì phải dâng?” Đại sư đáp: “Phật xét ở thành tâm, công đức chỉ là biểu hiện của thành tâm.” Chàng lại hỏi: “Đã có thành tâm, tất cầu mong. Như cầu thăng quan phát tài, nếu Phật giúp thành, tức là thừa nhận ngũ uẩn bất không; nếu không giúp, vậy chúng ta thành tâm làm gì?” Đại sư đáp: “Phật là kẻ đã ngộ, người là Phật chưa ngộ. Phật chẳng trực tiếp giúp ngươi, chỉ cho trí tuệ, khiến ngươi tự giải.” Chàng lại hỏi: “Thế nào mới tính là hữu duyên với Phật?” Đại sư rằng: “Vô duyên, cũng là một loại duyên.” Vì thế, ở chùa, chàng thường sầu muộn. Có lần ta cùng chàng dạo bước trên con đường hoa nở rực rỡ, lòng áy náy, bèn an ủi: “Chùa này tĩnh mịch, phong cảnh nên thơ, thỉnh thoảng ở lại cũng chẳng có gì không hay.” Chàng nghe xong lại quát: “Hợp phòng? Sao trong đầu nàng toàn nghĩ mấy chuyện ấy!” Kẻ bụng dạ xấu xa này, luôn nghi ngờ lòng ta. Ta vẫn nghĩ, Phật tổ dung thứ cho chàng là vì chàng có bộ mặt dễ nhìn. Nhưng chẳng bao lâu, Phật tổ hẳn cũng chán ngán dung nhan ấy, liền giáng xuống một phen trừng phạt. Hôm ấy, trong đại điện, ta bỗng phát hiện một con rắn cuộn ngay dưới chân chàng, lưỡi đỏ phun phì phì. Ta không kịp nghĩ, đã lao tới chộp lấy. Chàng mặt trắng bệch, kêu to: “Người đâu!” Rồi lại quay sang ta: “Trụ Tử, đừng sợ!” Ta run lẩy bẩy, vẫn cố nắm chặt con rắn trong tay. Hai chúng ta giữ nguyên tư thế quái dị ấy, cho đến khi xung quanh đầy người. Cuối cùng chàng che mắt ta, để kẻ khác gỡ con rắn ra. Ta cả người như trải qua cơn trọng bệnh, mềm nhũn, chẳng bao lâu thì hôn mê bất tỉnh. 7. Sau biến cố kia, bệ hạ liền truyền chúng ta hồi cung. Người vô cùng coi trọng, khẳng định đây là có kẻ mưu hại Thái tôn, lập tức hạ chỉ thành lập ty ban chuyên trách để tra xét. Kết quả tra ra khiến người người kinh hãi, đến ngay cả bản thân Ngụy Nghiệp Chiêu cũng không ngờ: quả thực là một vụ hành thích, chính xác hơn, là một màn báo thù. Chủ mưu là một tiểu thái giám, hắn khai ra kẻ đứng sau chính là An Vương – thúc phụ của Ngụy Nghiệp Chiêu. Bệ hạ có rất nhiều hoàng tử, An Vương là một trong số ấy. Năm xưa nhận phong địa ở An Châu, lúc hắn rời kinh, Ngụy Nghiệp Chiêu tuổi hãy còn nhỏ, lý ra đôi bên chẳng hề kết oán. Song An Vương lại kết oán cùng bệ hạ. Năm trước, An Vương từng dâng tin báo, nói vương phi của mình có mang. Theo lẽ là chuyện vui, đồng nghĩa với việc bệ hạ sắp có thêm tôn tức, nhưng bệ hạ lại chẳng lấy làm hoan hỉ. Trước khi ta gả cho Ngụy Nghiệp Chiêu, thân thể bệ hạ vốn đã không yên, có khi còn nguy kịch. Người nghe nói An Vương ở An Châu ngày ngày cầu y, nhưng chẳng phải vì phụ hoàng bệnh nặng, mà là vì vương phi thể nhược đa bệnh. Thế là bệ hạ trách hắn trọng sắc khinh hiếu, phụ hoàng hấp hối còn mải hoan lạc, thậm chí khiến vương phi mang thai – thật chẳng hợp đạo làm con. Vậy nên bệ hạ hạ chỉ răn dạy. Vương phi biết tin, hoảng hốt đến sẩy thai, chẳng bao lâu thì kinh sợ mà mất. Chúng thần đều nín lặng, bởi thiên uy khó lường, bất hạnh của An Vương, chỉ có thể quy là do hắn bất hiếu.