2. Năm Hồng Đức hai mươi, mùa hè. Ta gánh theo kỳ vọng của toàn huyện, vượt một tháng lẻ năm ngày đường, mới tới được kinh thành Nam An. Đồng hành cùng ta còn có mấy chục cỗ xe từ khắp nơi đưa tú nữ về triều tham tuyển. Xe ngựa nối đuôi tiến vào thành. Nào ngờ hôm ấy chẳng phải ngày lành tháng tốt, khi cách cổng thành chưa tới năm dặm, bỗng đâu cuồng phong vần vũ, sấm nổ long trời. Ngay lúc xe ta vừa tới cổng thành, một đạo thiên lôi đột nhiên giáng xuống. Phu xe khéo léo thoát thân, còn ta vẫn ngồi yên trong xe, chẳng hay biết họa giáng trước đầu. Chỉ nghe “oành” một tiếng, xe tan nát, lửa sét loang loáng. Mưa như trút chậu. Ta ngồi ngây như gỗ. Lạ thay, không mất một sợi tóc. Kể sao cho hết tâm trạng khi ấy. Suốt một thời gian dài, ta như hồn lìa xác tán, ăn được, ngủ được, chỉ chẳng thốt ra lời. Đến khi hồn phách về lại, thì đã thuận lợi vượt qua tuyển chọn của Lễ bộ, chỉ chờ vào cung dự tuyển trước ngự tiền. Ngày ta nhập cung, trời trong mây tạnh. Ba mươi tú nữ, đồng loạt vận váy lục, mặt mày mộc mạc, theo quan viên tiến vào hoàng thành, bước vào điện lớn tuyển phi. Điện trên ngồi đủ bậc tôn quý: Hoàng đế, Thái tử, Thái tử phi, và nhân vật chính của kỳ tuyển phi — Hoàng Thái tôn Ngụy Nghiệp Chiêu. Ấn tượng đầu tiên của ta về Ngụy Nghiệp Chiêu, là một tiếng… “phụt”. Bởi khi ta bước vào, trong bầu không khí trang nghiêm, bỗng vang dội một tiếng cười bật ra. Ta nghiêng mắt nhìn, thấy ở hàng ghế phía phải, thiếu niên mặc hồng bào, tay che miệng, run vai mà cười. Ta liền cúi đầu, tâm lặng như nước, quỳ xuống dập lễ: “Dân nữ Lý Thiết Trụ, khấu kiến Hoàng thượng.” Đối lập với sự bình tĩnh của ta, Hoàng đế hiển lộ hứng khởi, bất ngờ cất giọng: “Chính là ngươi?” Lời này, mãi về sau ta mới hiểu. Ấy là từ ngày bị sét đánh hôm nọ. Tương truyền hôm ấy, đạo lôi đình vốn bổ thẳng xuống cổng Nam An, nhưng kề sát mười trượng thì bỗng ngoặt hướng, giáng thẳng vào xe ngựa. Xe nát như tương, mà ta an nhiên vô sự, lại còn trầm ổn lạ thường. Nhân chứng đều nói, ta ngồi ngay ngắn, thần sắc chẳng hề dao động. Lại có kẻ thốt rằng: ‘Thân thể như phát ra hào quang. Lễ bộ ghi tấu lên trên, đúng lúc Khâm thiên giám gieo quẻ cho kỳ tuyển phi, được quẻ Chấn — tượng trưng cho lôi đình. Ấy là điềm báo Hoàng Thái tôn phi sẽ hữu duyên cùng sấm sét. Thiên ý trùng hợp, khiến Hoàng thượng vui mừng khôn xiết, quyết gặp mặt ta cho kỳ được. Cho nên, khi ta quỳ xuống, Người mới cười hỏi: “Chính là ngươi!” Ta vội đáp lễ: “Chính là dân nữ.” Hoàng thượng cao hứng cười lớn, lại hỏi: “Lý Thiết Trụ, ngươi có tài nghệ gì không?” Ta thoáng bàng hoàng. Xưa nay chưa ai dặn, kỳ quyết tuyển còn phải biểu lộ tài năng. Trong lòng hoảng hốt, chỉ nhớ lời phụ thân thường dạy: Phụ thân ta rèn sắt, ta cũng theo phụ thân mà rèn sắt. May sao, ta còn có một chút sở trường — xướng “Số lai bảo” (loại khúc nghệ dân gian, vừa gõ phách tre vừa xướng). Ấy là nhờ năm xưa có lão ăn mày thường tới nhà xin cơm, dạy ta đôi chút. Ta liền đáp: “Dân nữ biết đôi phần ‘Số lai bảo’.” Hoàng đế lập tức hứng thú, truyền: “Được! Xướng cho trẫm nghe một đoạn!” Người đưa phách tre đến tay ta. Ta hít sâu, chỉnh sắc mặt, rồi gõ nhịp mà xướng: “Ê hê! Phách tre phi, phách tre khởi, Bát Tiên Đông du hiển thần uy… Bát Tiên đồng trợ Hồng Đức gia, Hoàn ngã Đại Chiêu hảo thiên địa!” Khi tiếng ca dứt, chợt nghe trong điện có tiếng phách tre hòa nhịp cùng ta. Ta ngẩng lên, long nhan Hoàng đế rạng rỡ, tay gõ bàn, miệng cười khoái trá: “Ha ha! Năm xưa trẫm ăn xin, sở trường nhất chính là cái này!” Kỳ tuyển liền kết thúc trong tiếng cười chan hòa. Từ kẻ đỡ sấm che thành, mang điềm lành trời ban, lại hợp ý Hoàng đế trong tài nghệ, hết thảy đều minh chứng một đạo: Ta, thiếu nữ Lý Thiết Trụ, chính là ứng tuyển duy nhất cho ngôi vị Hoàng Thái tôn phi.