12. Chương cuối Ngụy Nghiệp Chiêu giữ trọn lời hứa, lấy dũng khí của mình mà ngăn không để thêm nhiều sinh linh vô tội bị cuốn vào cơn loạn. Khi chiến sự hiểm ác nhất, chàng truyền lệnh cho người tổ chức dân chúng trong thành tuần tự rút về hậu phương. Còn bản thân, đối diện đại trận lão luyện của Nhị thúc, đối diện sát thế kinh hồn của Đóa Nhan Tam Vệ, vẫn vững vàng kiên định, chẳng lùi một bước, cũng chẳng để Bắc quân tiến thêm nửa tấc. Chiến cuộc kết thúc, chàng tới ngục gặp Nhị thúc bị bắt, hỏi: “Là ngôi vị Hoàng đế quan trọng, hay là thiên hạ quan trọng?” Nhị thúc không đáp, chỉ lạnh lùng buông một câu: “Thắng thi làm vua, thua thì làm giặc.” Rồi tự vẫn tại chỗ. Ninh Vương qua đời, Ngụy Nghiệp Chiêu xử trí khoan dung với gia quyến. Ngoại trừ mấy trưởng tử từng theo phụ mưu nghịch, những người còn lại đều giữ được tính mạng. Chàng chỉ phế bỏ đặc quyền cao quý, giáng họ làm dân thường, ban cho vài mẫu đất cằn, để họ như chúng ta thuở sinh sống ở Lâm Hào, từ đó dựa sức mình mà sinh nhai. Trên đường hồi kinh, gió xuân lướt qua ruộng mạch, đồng nội mướt xanh. Sơn hà an tĩnh, nhân thế an hòa. Chàng thấy bách tính cắm cúi làm lụng, tiểu đồng cưỡi trâu ngoái nhìn đoàn quân hùng dũng đi qua. Ấy chính là mùa xuân năm Kiến Hòa đầu tiên thuộc về chàng. Trước khi nhập kinh, chàng ghé Hoàng lăng, một mình ngồi suốt đêm trước phần lăng Hồng Đức đế. Không ai biết chàng đã nói với Tổ phụ điều gì. Dẫu thắng trận trở về, song chiến thắng ấy chưa hoàn toàn. Người trong thiên hạ vẫn hoài nghi chàng không có khả năng nối dõi. Ánh mắt họ nhìn chàng: trước là kính trọng, kế đến là thương hại, rồi lại hóa thành một tầng kính ngưỡng cao hơn, như ngưỡng vọng bậc kỳ nhân thân mang khiếm khuyết mà chí khí kiên cường. Ngụy Nghiệp Chiêu chỉ có thể nhẫn nhịn. Nhưng mỗi lần chàng nhìn ta, ta đều cảm thấy trong sâu thẳm, chàng mong ta chủ động bước ra, lớn tiếng hô với thiên hạ: “Phu quân ta tuyệt nhiên có khả năng sinh hậu duệ!” Song, thiên hạ vốn dĩ, khi người khác cho rằng ngươi bất lực, dẫu ngươi kêu gào ra sao cũng vô ích. Chỉ có thành quả mới là minh chứng. Ngụy Nghiệp Chiêu cấp thiết cần một thành quả ấy. Ban ngày, chàng cần mẫn xử lý chính sự. Ban đêm, cũng vô cùng chăm chỉ. Nhiều khi mí mắt ta díp lại, chàng vẫn lắc tay ta, thấp giọng hỏi: “Trụ Tử, nàng có buồn ngủ chưa? Nếu chưa, thì ta lại có tinh lực rồi.” Sự khổ nhọc ấy kéo dài cho tới mùa thu năm ấy. Một đêm, trước khi tắt đèn, ta nói cho chàng hay tin mừng, chàng sẽ sớm làm phụ hoàng. Ngụy Nghiệp Chiêu ngẩn ra hồi lâu, bỗng xông tới bế bổng ta lên cao, lại cẩn trọng đặt xuống, rồi tự xoay tròn tại chỗ, tay xoa liên tục, chẳng biết phải làm gì cho thỏa. Thái độ hớn hở ấy khiến ta lo rằng chàng sẽ làm ra việc quá khích — chẳng hạn dắt ta chạy trong đêm, leo lên hoàng thành mà hô với thiên hạ: “Đúng vậy, chúng ta đã có hài tử rồi!” May thay, khí tiết tôn nghiêm của bậc Hoàng đế kìm hãm hành vi ấy. Chàng phần nhiều vẫn giữ được lý trí, chỉ là đối với ta lại quá mức nâng niu. Ta vừa trở mình, chàng đã lo lắng đến mức cả đêm không chợp mắt. Sáng hôm sau, trên triều, chàng vẫn ra dáng trầm ổn. Mãi tới khi quan lại khải tấu về cảnh được mùa thu năm nay, chúc mừng thánh minh, thuận tiện dâng lời chúc hỉ, thì bậc minh quân ấy mới như chợt bừng tỉnh, nghi hoặc hỏi: — Chúc mừng trẫm? Các khanh sao lại biết Hoàng hậu đã hoài thai? Chư thần nhất thời sững sờ, rồi nhao nhao dâng lời khánh hạ. Ngụy Nghiệp Chiêu lại giữ vẻ bình thản, như thể chuyện ấy với chàng vốn dĩ chẳng có gì đặc biệt. Năm sau, vào mùa hạ, ái nữ A Bảo chào đời. Nghiệp Chiêu vô cùng trân quý “thành quả” này. Nhiều đêm ta tỉnh giấc, bên gối đã trống, còn chàng thì ngồi bên nôi, ngây ngẩn nhìn dung nhan say ngủ của con. Khi A Bảo ba tuổi, một đêm bị sấm kinh hoàng khiến khóc mãi không thôi, chàng bế con trọn đêm. Tới sáng hôm sau, liền ôm hài tử ngủ say mà bước thẳng lên triều. Ấy là buổi sớm triều hội khác lạ nhất: chư thần lấy chàng làm tâm, tụ quanh bàn quốc sự, còn Ngụy Nghiệp Chiêu ôm lấy A Bảo mềm mại nhỏ bé, tỏa ra quang huy của bậc từ phụ, khiến toàn triều ngập trong nhu tình. Nhưng nhi tử Thành Diệm của ta thì chẳng hưởng được phúc khí như thế. Ngụy Nghiệp Chiêu bình phẩm nó rằng: “Người chán, chó ghét.” Thành Diệm ra đời khi A Bảo đã năm tuổi. Nàng nằng nặc đòi theo phụ thân chứng kiến muội muội hoặc đệ đệ ra đời. Ca sinh ấy thực gian nguy. Tiểu tử nhà ta, tựa như ta, chọn cách chân thật mà bước vào nhân thế, khiến phụ tử ở ngoài chờ đợi đến lòng dạ rối bời. Khi tất cả đã qua, chàng dẫn A Bảo vào gặp ta. Nữ nhi ôm ta khóc thảm, đến nỗi ta cùng Nghiệp Chiêu phải an ủi rằng: “Dù có đệ đệ, con vẫn mãi là bảo bối của chúng ta.” Song A Bảo vừa lắc đầu, nước mắt rưng rưng hỏi: “Mẫu thân sinh A Bảo cũng khổ sở đến vậy ư?” So với nữ nhi hiểu chuyện dịu dàng như áo bông nhỏ, Thành Diệm quả thực phiền phức. Lần đầu chàng dẫn nó lên triều, thằng bé hệt như cái cối xay, chạy khắp giữa các đại thần, khiến chàng hết lần này đến lần khác sầm mặt, nghiêm giọng gọi: “Ngụy Thành Diệm!” Nhưng nó chỉ phụng phịu giây lát, rồi lại tinh lực tràn đầy chạy loạn tiếp. Cuối cùng còn thò tay từ tay áo một vị đại thần mà lôi ra một miếng bánh đậu đỏ. Sau khi Ngụy Nghiệp Chiêu đăng cơ, phụ thân ta cùng Bành Thành bá ngày ngày kề cận, khi thì rèn sắt, khi thì ngâm Ly Tao. Thành Diệm thích thú nhất là tới ngoại tổ phụ xem rèn sắt, rồi nhỏ bé đã phát nguyện sau này làm thợ rèn. Khi A Bảo hay tin, liền muốn dạy dỗ đệ đệ. Thế là dưới ánh nhìn uy nghiêm của trưởng tỷ, Thành Diệm vung đôi tay nhỏ nhắn, vừa run vừa gắng gượng rèn suốt một ngày. Sau cùng nó khóc ròng thú nhận: chẳng thích rèn sắt, mà thích đọc sách hơn. Phúc Khánh công chúa tới tuổi cập kê, Ngụy Nghiệp Chiêu ban cho nàng phủ công chúa, lại chỉ hôn một mối nhân duyên tốt lành. Ngày gả, ta cũng dự lễ, nhân đó gặp lại Trịnh Nguyệt Hằng. Nguyệt Hằng, khi A Bảo sinh ra, nhờ tỷ tỷ mà kết duyên. Nay gặp lại, dung mạo nàng thêm phần viên mãn, khí chất an hòa. Nàng mỉm cười nói với ta: “Công chúa diễm lệ, Thái tử thông minh, nương nương thật có phúc.” Ta nhìn hai nhi tử nàng dắt bên, cùng thai nghén trước ngực, cũng lấy làm hoan hỉ, bảo rằng chính nàng mới là người có phúc. Đêm ấy, trong tẩm cung hương quế nhè nhẹ, ta thao thức, còn Nghiệp Chiêu an giấc bên cạnh. Bất chợt ta buột miệng hỏi: “Năm đó, chàng thật chẳng biết Trịnh Nguyệt Hằng có tình ý với chàng sao?” Chàng vốn đang ngủ, bỗng bật cười ra tiếng. Mở mắt, chống đầu nghiêng người nhìn ta, vừa nhìn vừa không ngăn nổi nụ cười. Ta tức giận xấu hổ, chàng lại nói: “Bao nhiêu năm rồi, nàng còn canh cánh chuyện ấy sao?” Chàng hỏi có phải lọ giấm ấy ta đã ôm mười mấy năm, rồi lại vờ vĩnh than thở mình là kẻ tội nghiệt. Cuối cùng, chàng hỏi ta còn nhớ hay không, năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt, khi ta và chàng từ cung Tổ phụ bước ra, ta đã nói điều gì. Ta dứt khoát bảo không nhớ. Chàng đáp: “Khi ấy nàng nói: ‘Nghiệp Chiêu, ta thật lòng thích chàng.’” Ta bình tĩnh khăng khăng phủ nhận. Ngụy Nghiệp Chiêu khẽ thở dài, nụ cười vấn vít bên môi: “Vậy thì nay nàng phải nhớ kỹ, ngày mồng tám tháng tám, năm Cảnh Hòa thứ mười, Trụ Tử, ta thật lòng thích nàng.” <Hoàn>
Bình luận