27.
Bữa cơm giao thừa ấy, từ chiều tà ăn mãi đến tận khuya.
Rượu cạn lại rót, trong trướng toàn mùi nồng của rượu thiêu, ta ngửi đến muốn díp cả mắt.
Khó khăn lắm mới giải tán được tiệc, lại thấy Nhan Húc Chi cứ đi sau lưng ta từng bước không rời, ngay cả lúc ta vào xí cũng bám đến tận cửa, đứng cách ba bước làm “vệ binh”.
Nhìn chủ soái doanh trướng thế này, đêm nay ta đừng mong mà thoát thân.
Phương Thế Hữu cau mày kéo ta sang một bên, thì thầm:
"Ngươi đắc tội với hắn à? Sao hắn cứ nhằm vào ngươi mãi thế!"
"Không sao, không sao, ta biết chừng mực mà."
Hắn trợn mắt lườm ta:
"Biết cái rắm ấy! Ta vừa nghe ngóng được rồi, Thừa tướng này chẳng phải loại thiện lương gì, trong kinh ai ai cũng gọi hắn là Sát Thần! Hồi trước phản loạn rơi vào tay hắn, chẳng có ai sống mà ra khỏi đại lao đâu."
"Ngươi mà từng làm gì phật ý hắn thì nói ra đi. Dù phải bỏ luôn quân công, ta cũng quyết bảo toàn mạng ngươi."
Phía sau, ánh mắt kia vẫn dính chặt vào lưng ta, khiến ta vừa ngượng vừa luống cuống, phải gỡ ngay bàn tay đang níu áo ta của Phương Thế Hữu xuống.
"Chà, ngươi nghĩ đi đâu vậy... Ta với hắn cũng coi như từng cùng hoạn nạn, nay gặp lại chỉ là trò chuyện đôi câu thôi."
Hắn giậm chân như sắp nhảy lên:
"Cùng một lều trò chuyện!? Hai người từng là tù chung trại, bốn tháng trời ở chung một chỗ!"
Phương Thế Hữu mười ngón đan vào tóc, gãi mãi, bước đi mà còn ngoái lại nhìn ta mãi.
Lại thấy Nhan Húc Chi lặng lẽ đứng ngoài màn trướng, kiên nhẫn đợi.
Trong trướng lò than hồng rực, ánh sáng không rõ lắm nhưng ấm áp.
Ta nướng vài củ khoai, rang hai nắm lạc, chuẩn bị cho một đêm dài nói chuyện.
Bên ngoài lính hầu đều đã rút cả, trời đất chỉ còn ta với hắn.
Hắn không hỏi ta ba năm qua sống ra sao — chỉ trong một ngày này, hẳn cũng đã điều tra rõ ràng hết về ta rồi.
Hắn dường như trở lại như xưa, trầm mặc, chỉ lặng lẽ nhìn ta.
Còn ta, chẳng hiểu sao cũng hóa thành cái bình hồ lô bịt miệng, nghe lạc nổ lách tách trên lò mà không tìm ra được lời nào vừa ý.
Mãi mới hỏi được một câu:
"Năm xưa những kẻ hại cả nhà ngài... bây giờ ra sao?"
"Đám hoạn quan Đông Xưởng nhúng tay vào việc quân, đều bị ta lệnh lăng trì, cho người chém từng nhát một.
Ba đại doanh ở kinh thành, ta cũng đã thanh lọc từ trên xuống dưới một lượt."
Ta nghe xong rợn hết cả da đầu, vội đáp:
"Bọn chúng đáng tội, đáng đời."
Hắn hạ mắt, siết chặt chén trà trong tay.
"Ngươi bây giờ, nói ít đi nhiều lắm... Trước kia mỗi đêm, ngươi luôn có đủ chuyện để kể cho ta nghe."
Ta ngượng chín mặt, mũi chân cắm xuống đất.
"Khi ấy ở trong lao lâu quá, chắc là mắc cái gọi là chứng lo âu, không nói thì trong người khó chịu... Cũng không phải bệnh gì, ra ngoài thì khỏi thôi."
Hắn nghe xong không hiểu “lo âu” là gì, cũng chỉ "Ừ" một tiếng.
Im lặng kéo dài.
Hai đứa cùng ngồi trên ghế lớn, cách nhau ba bước, rõ là muốn "chuyện trò tâm giao" mà cũng thành xa lạ lạ lùng.
Chỉ có những chuyện canh cánh trong lòng, rốt cuộc vẫn là nợ mãi chẳng quên được.
Nhan Húc Chi nhẹ nhàng đặt tay lên đầu gối…
"Tiểu Ngư, chân ta đau quá."
Ta vội vàng đứng dậy:
"Để ta đi gọi thái y."
Hắn lại thấp giọng:
"Đau lắm... đau đến chẳng chịu nổi một khắc nào."
Ta đành dời một chiếc ghế nhỏ, như thuở trước mà ngồi xuống trước mặt hắn, tay xoa nhẹ lên đầu gối hắn mà day bóp.
Kỳ thực, ta nào biết xoa bóp ra sao?
Thuở ấy cũng chỉ bởi trong lòng vướng một mối bực, hắn càng ra vẻ "chân này đã phế, sống c.h.ế.c tùy ý", ta càng không cam tâm, thề phải chăm nom cho hắn khỏe mạnh, tinh thần phơi phới!
Vậy là hễ rảnh rỗi, ta lại lôi ra xoa bóp.
Khi ấy, trong bóng tối chẳng đèn chẳng nến, hai người vừa chuyện trò vừa cười đùa.
Còn nay, cố nhân gặp lại, lại chẳng nói được câu nào cho trọn.
Sự im lặng xa lạ ấy nhanh chóng vùi lấp cả hai, đến mức chẳng ai dám nhìn ai.
Hắn nghẹn ngào, yết hầu run lên, lúc lên tiếng đã chẳng giấu được tiếng nức nơi cổ họng:
"Tiểu Ngư... cớ gì nàng chẳng dám nhìn ta?"
"Nàng ngẩng đầu lên, nhìn ta đi."
Hai câu nói ấy suýt làm ta bật khóc, đành ngẩng đầu lên, cố nén lệ, nhìn thẳng vào hắn.
Hắn buộc tóc bằng ngọc bích, vận y phục hoa lệ, đôi tay trắng như men sứ, ẩn hiện ánh sáng tựa ngọc.
Khuôn mặt ấy, càng ngắm càng thấy tuấn mỹ dị thường, thoát tục như thần nhân.
Khi nãy ở yến tiệc ta cũng có liếc qua, giữa bao tướng quân oai hùng, hắn ngồi đó càng lộ ra khí độ phi phàm, khiến bọn họ trông cứ như đám gấu rừng thô kệch.
Hắn không còn là kẻ chật vật tiều tụy năm xưa, ta ngẩng đầu nhìn, ngay cả cái cằm kia cũng trơn nhẵn tinh xảo, đẹp tới mức không thật.
Thuở trong thiên lao ba tháng đầu, chẳng đèn chẳng nến, hai đứa mò mẫm chuyện trò.
Về sau có đèn, hắn râu ria xồm xoàm, ta tóc tai bù xù, ai cũng chẳng buồn để ý đến hình hài nhau.
Đến khi lên pháp trường, tội nhân không được phép chỉnh tề, trong ký ức ta in hằn bóng hắn gầy còm, chân què, tóc khô như cỏ cháy.
Thậm chí hôm trước khi hành quyết, hắn còn đập bát lấy mảnh sứ cạo râu, cũng chẳng thể nào nên tuấn tú.
Nay hắn đã khác, bên hông là miếng ngọc giá nghìn vàng, mỗi động tác đều phảng phất khí chất quý nhân.
Ta nào còn dám nhận ra hắn?
Ta nào còn dám như xưa mà bám riết trêu chọc, làm nũng, làm càn?
Hắn nhắm chặt mắt, lệ trào từng giọt lớn, rơi xuống không lời.
"Ta ở kinh thành tìm nàng suốt ba tháng, lục tung từng ngõ ngách, rồi sang cả vùng phụ cận, lần lượt sang Sơn Đông, Thiểm Tây, Hà Nam, tới đâu cũng lần theo tịch sách mà dò hỏi họ Dư..."
"Trong phủ Thái tử không hề có tên của nàng. Niên Thập Ngũ nói, nàng tám phần là bị người ta mua chuộc, thay người chịu tội, hoặc cũng có thể tên đã bị xóa khỏi hộ tịch nhà họ Dư; lại có khi nàng là nữ tử, chẳng được ghi tên lên gia phả."
"Ta liều mạng phát triển hệ thống quân trạm, chẳng dám nghỉ ngơi lấy một ngày, đến tận năm nay mới đặt được mật thám khắp đường thủy Giang Nam."
"Ta nghĩ nàng vốn sợ lạnh, chắc là đi về phương Nam rồi."
"Nào ngờ, lại chạy đến biên ải Đông Bắc, ném mình vào quân doanh."
Ta nghẹn lời không biết giải thích ra sao.
Ta đây mà gọi là tự nguyện nhập ngũ ư? Rõ là bị bắt lính, bị trói lôi đến tận đây, bốn bề đều binh đao loạn lạc, các nơi phản quân khởi binh, trên người ta chỉ có hai lượng rưỡi bạc thì đâu dám liều mình chạy loạn?
Nghĩ bụng quân chinh Bắc dù sao cũng là quan quân triều đình, thôi thì cứ đi theo một phen đã.
Về sau mới hay, doanh trại quân đội vệ sinh vô cùng tệ hại, người và súc vật chen chúc, khiến thương binh chết vì nhiễm trùng nhiều vô kể.
Từ đó, ta nghĩ ra dây thắt cầm máu, nghĩ ra nước khử trùng.
Ta lập đội nữ y, dạy họ cách sát trùng, băng bó, khâu vết thương.
Nước khử trùng dùng để lau sàn, xoa bóp tim cứu người, động mạch đứt thì buộc ở đầu gần tim, nước muối sinh lý diệt khuẩn ngừa nhiễm... Những điều này ở hậu thế, e chỉ cần học qua cũng biết.
Nào ngờ ở đây, ta lại thành cái người mà đám quân sĩ xưng tụng là thần cơ diệu toán.
Kiếp trước, đường hướng nghề nghiệp của ta cứ mông lung, bản thân giỏi gì, yêu gì cũng không rõ ràng, làm gì cũng tạm bợ cho xong.
Nào ngờ sang đây rồi, phương hướng đời người bỗng rõ ràng tỏ tường.
Ta lại tìm được bản thân mình thuở trước—một ta từng rực rỡ chói sáng.
Ta đem hết những chuyện trên đường kể cho hắn nghe, kể cả chuyện Phương Thế Hữu, kể về lũ huynh đệ từng là sơn tặc.
Nói mãi đến tận khi trời hửng sáng, kể đến củ khoai nướng trên bếp cháy sém lớp vỏ.
Đợi đến khi ta ngáp ngắn ngáp dài, mới thấy hắn đã dựa lưng vào ghế mà ngủ thiếp đi, nét ngủ yên bình, dưới mắt còn in vệt xanh đen vì lâu ngày chưa từng có một giấc ngon.
Bàn tay vẫn cứ nắm chặt lấy vạt áo ta, cứ như sợ ta lặng lẽ bỏ đi mất.
Lòng ta dâng lên vị chua xót.
Ta đỡ đầu hắn, dìu hắn lên giường nghỉ.
Mà vạt áo ấy hắn nắm chặt chẳng chịu buông, ta cũng chẳng dám gỡ, đành đá bay giày, tùy tiện nằm luôn xuống cạnh bên.