Sau mười ngày gấp rút như bị xé làm tám mảnh, cuối cùng đoàn ta cũng đặt chân đến Ninh Cổ Tháp.
Nơi rừng Hắc Trạch là chốn sinh cư của những người bị lưu đày, cũng là nơi nhà Quốc công ẩn cư.
Ngày thường, nam nhân vào rừng đốn củi, đêm đến thì về nghỉ trong các căn lều gỗ dựng tạm.
Tưởng nơi đây hoang vắng, ai ngờ đến rồi mới biết nhân khẩu của nhà Quốc công đông như quân Nguyên:
Hai người đệ đệ của Hưng Quốc công, bốn người cháu, một người nhi tử, sáu đứa cháu nội, cộng thêm sáu bảy nữ quyến… Tính ra cũng hơn hai mươi người!
Bốn năm cách biệt, cuối cùng ta cũng gặp lại vị thiếu phu nhân mà thuở nhỏ ta vẫn xem như tiên nữ giáng trần.
Nay người mặc áo vải, chân đi giày cỏ, gương mặt rám nắng, bàn tay chai sần... hoàn toàn không còn nét quý khí thanh tao thuở trước.
Thế nhưng, lòng nhân hậu sinh nhan sắc, ánh mắt nàng vẫn sáng ngời dịu dàng, khiến người đối diện không khỏi muốn gần gũi nương nhờ.
Người thân gặp lại, nước mắt tuôn rơi như mưa, ôm nhau nghẹn ngào. Nhất là khi thiếu phu nhân bỗng gặp lại hai đứa con ruột thịt, nàng suýt ngã quỵ tại chỗ vì xúc động quá mức.
“Vương Hành, thật vất vả cho con rồi!”
Hưng Quốc công thân hình to lớn, vỗ mạnh lên vai hắn, mắt ươn ướt, giọng nói đầy cảm kích và nghẹn ngào.
Vương Hành cũng rưng rưng xúc động, trầm giọng đáp:
“Thúc khách khí quá. Tam hoàng tử nay đã được đại xá, ngày Quốc công phủ khôi phục, e là chẳng còn xa. Lúc này, sức khỏe của thúc mới là quan trọng nhất.”
Hưng Quốc công thở dài, lắc đầu:
“Thiên ân khó dò, lời ấy... để sau hãy nói.”
Vương Hành khẽ mỉm cười:
“Xưa nay Quốc công phủ hành thiện tích đức, thương dân giúp đời. Qua kiếp nạn này, ắt được phúc báo, đạo trời không phụ lòng người.”
“Haha, tiểu tử này học ở đâu mà miệng lưỡi khéo quá đỗi?”
Vương Hành cười, chỉ về phía ta – khi ấy đang loay hoay dỡ hành lý từ xe – rồi bảo:
“Học từ muội ấy.”
“Đây là... Xuân nhi phải không?”
Thì ra, lần trước Vương Hành đã kể rõ ân tình của nhà ta với Mã thẩm và hai đứa nhỏ. Hưng Quốc công tuy chưa gặp mặt, nhưng nhớ rõ từng lời. Nay gặp ta, liền nhận ra ngay.
Ta vội vàng hành lễ:
“Con bái kiến Quốc công gia. Mã thẩm thường nhắc đến ngài, đêm ngày trông ngóng ngày cả nhà đoàn viên.”
“Tốt, tốt... Bà ấy vẫn khỏe chứ?”
Ta đáp khéo:
“Khỏe lắm ạ. Giọng mắng người còn vang hơn cả hồi còn ở trong phủ.”
“Thế thì tốt... Thế thì tốt...”
Nhắc đến thê tử, mắt ông rưng rưng, nhưng rất nhanh lấy lại bình tĩnh, ngẩng đầu, mỉm cười nhìn ta:
“Cả nhà con là đại ân nhân của ta. Xuân nhi này, nếu không chê, để ta nhận con làm nghĩa tôn nữ, được không?”
Chưa kịp đáp, Vương Hành đã cúi người can gián:
“Thúc, e là việc này nên để sau khi hồi kinh rồi bàn cũng chưa muộn.”
Hưng Quốc công thoáng sững sờ, đoạn phá lên cười ha hả:
“Được được, là ta nóng vội quá rồi!”
Ta: “…”
Sau khi chuyện trò, thiếu phu nhân nắm c.h.ặ.t t.a.y ta, nghẹn ngào gọi:
“Xuân nhi—”
Mới nói được hai chữ, nước mắt đã tuôn như suối.
Ta hiểu tấm lòng người, liền siết nhẹ tay nàng, đáp lại:
“Thiếu phu nhân, xin người đừng nhắc đến chữ ‘tạ’. Năm xưa Quốc công phủ từng cứu giúp nhà ta, ân tình ấy, sao có thể quên?”
Thiếu phu nhân lắc đầu:
“Chỉ là tiện tay cho ít đồ mà thôi... Có đáng gì đâu.”
“Người sai rồi.” – ta nghiêm giọng nói – “Nếu không có mấy món ‘không đáng gì’ đó, có lẽ nhà ta đã đói c.h.ế.t mất một, hai người. Mẫu thân và đệ đệ của ta cũng khó lòng sống đến ngày nay... Ngày ấy tổ mẫu ta dẫn ta đến phủ là để ‘xin xỏ’, chẳng ngờ lại kết thành mối duyên dày nghĩa sâu như vậy.”
Lời ta khiến nàng bật cười trong nước mắt, khẽ chạm tay vào chóp mũi ta:
“Đứa nhỏ này, thật lòng biết nghĩ. Không biết sau này ai có phúc lấy được ngươi, chắc phải tích đức ba đời mới xứng.”
Dù có tiền chuộc thân, nhưng người của Quốc công phủ nơi Ninh Cổ Tháp vẫn phải làm việc nặng. May là dân địa phương không ai hà hiếp.
Chuyến đi này, chúng ta mang theo nhiều sách vở, bút mực. Nơi đây có vài thiếu niên, dù lâm cảnh lưu đày, cũng nên học hành để không thành kẻ mù chữ.
Hưng Quốc công cảm kích, nhưng cũng ân cần khuyên nhủ:
“Mọi sự nơi đây đã ổn. Sau này, các con không cần phải đến nữa. Đi lại nhiều quá, dễ khiến kẻ khác dòm ngó, sinh chuyện không hay.”
Vương Hành gật đầu:
“Thúc nói phải. Ngày mai chúng nàng sẽ trở về. Chỉ là, vãn bối mạo muội xin nói một câu – năm nay Vân Châu thiên tai, sang xuân e sẽ có ôn dịch. Mong thúc và mọi người phòng bị từ sớm.”
Hưng Quốc công biến sắc, rồi nghiêm nghị gật đầu:
“Nhất định sẽ nhớ kỹ.”
Ở lại ba ngày, đoàn ta lên đường hồi hương. Khi đi ngang Vân Châu, thấy quan phủ đã điều động nhân lực khẩn trương cứu trợ, dân chúng cũng dần ổn định lại.
Ta nghĩ thầm:
Hoàng thượng… thật ra vẫn là một minh quân.
-------------------
Khi trở về Đào Thủy thôn, mẫu thân ta ôm chầm lấy ta khóc không thành tiếng.
Mã thẩm ôm chặt Chi An và An Chi ngồi trên giường đất mà vừa khóc vừa mắng:
“Nghe tin Vân Châu gặp nạn, cả nhà sợ đến thắt ruột. Phụ thân mấy đứa còn định thuê xe ngựa lên đường tìm. May trời thương, các con bình an vô sự… nếu không thì, nhà này còn biết sống sao đây?”
Tổ mẫu ta tranh không được người để ôm, liền xoay người túm lấy Vương Hành, hỏi một tràng dồn dập:
“Có bị thương không? Trên đường có kẻ xấu không? Ở Ninh Cổ Tháp chịu khổ thế nào rồi?”
Vương Hành từ tốn kể lại mọi chuyện, rồi bỗng cúi người hành lễ thật sâu trước tổ mẫu ta:
“Tổ mẫu, khiến người lo lắng, là lỗi của vãn bối.”
Tổ mẫu ta sững sờ, suýt nữa làm đổ cả chén nước bồ công anh trên tay:
“Ngươi… gọi ta là gì?”
Chẳng phải từ trước đến nay hắn vẫn gọi là “Lý bá nương” sao?
Vương Hành vẫn trấn định như thường, giọng đều đều:
“Tổ mẫu.”
Tổ mẫu ta ngẫm ra dường như có điều không ổn, nhưng còn chưa kịp hỏi thêm, hắn đã vội vã cáo lui, lủi mất như gió.
-------------------------------
Còn cả nhà… thì cũng nhanh chóng trở lại nhịp sinh hoạt quen thuộc.
Qua vụ mùa hè, là vụ thu.
Gặt xong thì lại gieo trồng.
Như vòng xoay thời tiết, như nhịp đời, không ngừng không nghỉ.
Người làm nông quanh năm ba vụ, thân mình chẳng mấy khi rời khỏi thửa ruộng mảnh vườn, quả thật vất vả đến mức kiệt sức.
Đến tháng Mười, mới tạm gác cuốc liềm, lòng người chưa kịp thảnh thơi đã rộ lên bao nỗi bất an.
Vương Hành nghe các thương nhân qua lại thì thầm: ở Nam Cương đang bùng phát ôn dịch, bệnh lạ lây từ người sang người, hung hiểm vô cùng.
“Nam Cương xa ngút ngàn, chẳng lẽ lại lây tới tận Đào Thủy?”
Tổ mẫu ta phẩy tay khinh suất, vẻ mặt chẳng lấy gì làm lo.
Thế nhưng, dù không lo bệnh, bà lại vô cùng sợ bát thuốc đắng mà Thu muội hằng ngày sắc sẵn.
Mỗi lần nhìn thấy là nhăn mày cau mũi, chẳng khác gì thấy độc dược. Bà còn ngấm ngầm tính chuyện, nhân lúc không ai để ý, sẽ lén đổ đi chỗ khác.
Tiếc thay, Thu muội đâu phải người dễ đối phó.
Tiểu nha đầu này vốn nổi danh cả thôn với cái biệt hiệu: “Bá đạo tiểu cô nương Đào Thủy.”
Một khi tổ mẫu dám không uống thuốc, nàng sẽ đứng chắn ngay cửa nhà xí, tay chống nạnh, mặt hằm hằm, nhất quyết không cho đi tiểu!
Người già ba việc không rời thân: ăn, ngủ, đi.
Huống hồ tổ mẫu tuổi cao, chỉ cần trễ chút là phải thay y phục. Đến nỗi bà lắc đầu than trời:
“Cái nghiệp gì không biết nữa, dạy dỗ cả đời, cuối cùng lại bị cháu mình bức đến thế này…”
Dù vậy, cuối cùng cũng đành ngậm ngùi uống sạch ba bát mỗi ngày, như thể nuốt cả ngàn vạn giọt lệ vào lòng.