Chỉ có mình ta là nhớ mãi.
Bụng ta đau suốt một đêm, tay run rẩy nắm lấy túi bạc bên giường. Đêm qua ta đếm thử, có tròn một trăm lượng, đủ cho ta tiêu cả đời rồi.
Phí Thu Dật đúng là rộng rãi.
Khóa cửa Uẩn Trúc Viện lại, ta đi về phía trong thành.
Ta đi loanh quanh khắp nơi, cuối cùng dừng lại trước một hiệu thuốc lớn. Bên trong toàn là quý nhân áo gấm, ta hít sâu một hơi rồi bước vào.
Vừa vào cửa, ta liền trông thấy Phí Thu Dật.
Sắc mặt hắn trầm lạnh, trong mắt còn ánh lên vẻ chẳng hài lòng:
“Ngươi theo ta đến đây?”
Ta sững người, quay đầu nhìn quanh một vòng, chắc chắn hắn đang nói với ta, bèn lắc đầu:
“Ta không có theo huynh.”
“Bụng ta đau, nên đến mua thuốc.”
Hắn nhíu chặt chân mày:
“A Ngọc học y dưới trướng đích nữ Thái y viện viện thủ, thường được sư trưởng khen ngợi. Muội ấy nói ngươi không bệnh.”
Hắn chia cho ta hai gói thuốc bổ trên tay:
“Năm đó A Ngọc để lại chứng ho khan sau trận cháy, đây là dược thiện mà viện thủ Thái y viện kê riêng để dưỡng thân. Ngươi mang về dùng đi.”
Giọng Phí Thu Dật lạnh nhạt:
“Nếu không bệnh thì đừng giả bệnh, phải chú ý tránh điều xui rủi.”
Nói xong, hắn sầm mặt định rời đi, ta vội bước lên giữ lấy tay áo hắn, khóe mắt nóng ran:
“Ta không giả.”
Hắn ngẩn ra nhìn ta, ánh mắt dừng lại.
Mí mắt ta cay xè, vành mắt ươn ướt, tầm nhìn dần mờ đi.
Phí Thu Dật khẽ run mí mắt, chau mày, giọng lạnh lại:
“Đợi khi nào rảnh, ta dẫn Liễu Hiền đến xem bệnh cho ngươi.”
“Nàng là đích nữ của viện thủ Thái y viện, được chân truyền, y thuật tinh thông.”
Nhắc đến Liễu Hiền, ánh mắt Phí Thu Dật trở nên dịu lại.
Hắn lại nhét vào tay ta một túi vàng, rồi vội vã rời khỏi hiệu thuốc.
Ta đưa số vàng ấy cho lang trung. Lão lại đẩy về, râu tóc hoa râm run run, giọng khàn đục:
“Về mua chút gì ngon mà ăn.”
“Vui vẻ lên, biết đâu chịu đựng qua được mùa Tết này. Xuân đến, hoa nở đẹp lắm, gắng mà xem một lần.”
Ta mỉm cười.
Trước khi lên kinh thành Vọng Kinh, ta vẫn rất sợ c.h.ế.c.
Thế nhưng, sau khi gặp Tống Minh Quý tối qua, ta nhận ra trên đời này vẫn còn có người giống như ta, một mình lìa đời tất nhiên rất đáng sợ, nhưng nếu hai người cùng nhau lìa đời vào cuối đông, bỗng chốc cảm thấy cũng náo nhiệt vui vẻ.
Ta xách ba gói thuốc giảm đau trở về.
Nắng đã lên cao, gã đồ tể bán hết thịt đang dọn hàng, ta đứng trước sạp, lưỡng lự không biết nên mua không.
Gã đồ tể ngước mắt nhìn ta:
“Ngươi muốn mua xương bò à?”
“Vâng!”
Hắn có thể không giữ lời hẹn, nhưng ta đã nói sẽ nấu hoành thánh nước xương bò, thì nhất định phải giữ lời.
Đồ tể dùng dây thừng treo lên hai khúc xương bò lớn đưa cho ta.
“Không cần trả tiền.”
“Vốn chẳng có ai mua, cho ngươi đấy.”
Ta cười híp cả mắt, hóa ra ở Vọng Kinh thành này lại có nhiều người tốt đến vậy.
Lão lang trung khám bệnh cho ta thì tốt, đồ tể bán thịt thì tốt, Tống Minh Quý chia hoành thánh cho ta cũng thật tốt.
Trên đường về, ta cứ nghĩ mãi.
Nhỡ đâu hôm nay Tống Minh Quý sẽ đến thì sao?
Băng qua rừng trúc rậm rạp trước Uẩn Trúc Viện, ta đã thấy một công tử áo xanh cao gầy đứng tựa trước cửa, mặt trắng bệch, giữa mày có một nốt ruồi đen, hắn nở nụ cười u ám:
“Tưởng đâu ngươi không trở về nữa.”
Ta ngẩn người, dụi mắt nhìn kỹ:
“Ngươi thật sự đến rồi!”
Lần này đến lượt Tống Minh Quý sững lại, vẻ mặt kinh ngạc:
“Ta đã nói hôm nay gặp, tất nhiên sẽ tới.”
Ta dùng xơ mướp chà sạch bếp, bảo Tống Minh Quý ngồi bên nồi sắt nhóm lửa, còn ta cầm muôi lớn ninh nước dùng.
Nước sôi bốc lên mùi ngậy của xương bò.
Ta thái nhuyễn rau tề dại đã ngâm nước, trộn cùng dầu mè, thịt lợn tươi và chút muối, dùng ngón tay xoay tròn nắn thành hoành thánh.
Một nồi hoành thánh trong nước xương bò vừa sôi vừa dậy mùi thơm, hương quyện vào khắp gian nhà.
Ta đói lắm rồi.
Lần này Tống Minh Quý cũng ăn được nửa bát.
Ta ăn sạch cả nồi.
Mọi chuyện không kết thúc trong ngày hôm ấy.
Ngày mai, ngày mốt, rồi ngày kế tiếp, suốt nửa tháng sau, mỗi ngày Tống Minh Quý đều mang theo thịt lợn, thịt bò, cá tôm, nấm... đến Uẩn Trúc Viện.
Hắn nói:
“Ngươi ăn ngon miệng quá.”
“Ta chỉ có thể gắng gượng ăn cơm khi thấy ngươi ăn.”
Tống Minh Quý thật đáng thương.
Cũng chỉ còn một tháng thọ mệnh, ta vẫn ăn uống được, còn hắn thì chẳng buồn động đũa, không làm nổi một quỷ đói c.h.ế.c no, thật là đáng tiếc.
Những sơn hào hải vị ta và hắn ăn vào, hóa ra đều uổng phí.
Hôm ấy, ngoài viện vang lên tiếng gõ cửa.
Ta kéo cửa ra, còn đang định xem hôm nay Tống Minh Quý mang đến món ngon gì, thì lại thấy Phí Thu Dật và tiểu muội đứng trước cửa.
Ta sững sờ.
Tiểu muội cố nở nụ cười, nhưng lại gượng gạo:
“Thợ thêu phủ họ Liễu thêu sai hoa văn, Liễu Hiền tỷ tỷ bận sửa mẫu áo cưới, hôm nay không rảnh đến xem bệnh cho tỷ đâu, Thẩm Vi tỷ.”
Phí Thu Dật ánh mắt lạnh lẽo:
“Ta đã mời Liễu Hiền cô nương tới, nàng sẽ đến đây ngay.”
Tiểu muội bặm môi, không nói gì.
Ta tay lần trên then cửa, gượng cười:
“Lâu lắm không gặp, mời vào trong.”
Trong Uẩn Trúc Viện có lối đi lát đá xanh, bên cạnh là bàn đá tròn lớn, Phí Thu Dật ngồi đối diện ta, ánh mắt lạnh nhạt:
“Về hôn ước giữa ta và ngươi...”
Ta vội ngắt lời:
“Huynh và Liễu cô nương đã được Hoàng hậu ban hôn, còn hôn ước từ trong bụng mẹ giữa ta và huynh thì nào dám sánh với thánh chỉ.”
Tiểu muội cong mắt mỉm cười với ta.
Phí Thu Dật nhíu mày, trầm mặc hồi lâu rồi nói:
“Đợi có thời gian, ta sẽ tìm cho ngươi một mối hôn sự tốt.”
Tiểu muội chống cằm nói:
“Ca ca, trong phủ Liễu Hiền tỷ tỷ có một gã mã nô cao lớn, tính tình hiền lành, chữ nghĩa không biết lấy một chữ, chắc hợp với Thẩm Vi tỷ, lại rõ gốc rõ ngọn, vừa vặn là duyên tốt.”
Ta vội vàng xua tay, cuống quá nói to:
“Ta chẳng còn sống được bao lâu, kiếp này quyết không thành thân, đừng làm lỡ dở người ta.”
Tiểu muội phá lên cười, vỗ vỗ tay Phí Thu Dật:
“Ca ca, Thẩm Vi tỷ là cố ý châm chọc huynh không thực hiện được lời hôn ước từ trong bụng mẹ năm xưa, còn giả bệnh nói cho đáng sợ để khiến huynh áy náy đó.”
Mắt ta nóng lên:
“Không phải vậy.”
Phí Thu Dật sắc mặt âm u, nhìn ta thật sâu, mím môi nói khẽ:
“Thật hay giả, đợi Liễu cô nương tới khám là rõ.”
“Nàng y thuật cao minh, chắc chắn không oan cho ngươi.”
Đúng lúc ấy, cửa mở ra.
Một thiếu nữ áo trắng mảnh mai, tay xách hộp thuốc, bước vào.
Nàng ngồi cạnh Phí Thu Dật rất tự nhiên, dịu dàng mỉm cười với ta:
“Cứ gọi ta là Liễu Hiền.”
Ta đặt tay lên mặt bàn.
Nàng đặt đầu ngón tay lên mạch của ta, sắc mặt thoáng xám xanh, rồi nàng lật mí mắt ta, xem cả lưỡi, gương mặt dần trầm xuống:
“Sao lại bệnh nặng đến mức này?”