4.
Có lẽ rốt cuộc hắn cũng không muốn dây dưa, liền buông tay để ta vào phòng.
Ta ôm lấy một chăn, trải lên mỹ nhân tháp, lại ôm thêm một chiếc nữa để chuẩn bị đắp cho mình.
Chính viện Đông cung dẫn nước suối nóng vào làm bể tắm, nên chẳng cần vất vả nấu nước. Hắn vừa tắm xong trở về, toàn thân còn vương hơi nước trong trẻo, bảo ta:
"Ngươi cũng đi đi, tắm rửa xong thì nghỉ sớm."
Ta ngâm mình một lát, thay y phục ngủ rồi ra ngoài, thấy hắn đã nằm xuống mỹ nhân tháp.
Ta bước tới, khẽ chọc vai hắn:
"Điện hạ sao không lên giường nằm?"
Hắn nhắm mắt lại:
"Ta thích nằm đây, ngươi lên giường mà ngủ."
Ta mở miệng định nói, song cuối cùng vẫn nghe theo, nằm xuống chiếc giường rộng rãi, mềm mại, ấm áp.
Ta nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, nửa đêm chợt tỉnh, nhìn thấy hắn vẫn lặng lẽ nằm trên tháp, không rõ đã ngủ chưa.
Ta nhìn bóng lưng hắn hồi lâu, lắng tai nghe khắp nơi, ngoài tiếng gió thì không có động tĩnh gì khác, chập chờn lại thiếp đi.
Sáng hôm sau, rốt cuộc Mộ Dung Tín cũng nhớ ra phải hỏi lai lịch của ta.
Ta thành thật trả lời hết thảy.
Ta tên là Hoa Quỳnh, ba tuổi cha mẹ mất trong nạn đói, được nhà cữu cữu nuôi dưỡng năm năm, sau vì nghèo khó nên bán ta đi.
May mà vận số chưa đến nỗi bạc, bị bán qua tay mấy lần rồi vào cung, năm mười bốn tuổi được điều về Đông cung làm việc, đảm nhiệm trồng hoa, vườn nguyệt quý bên hồ Nguyệt là do ta cùng các cung nữ cùng phòng vun trồng nên.
Nghe ta nói, khóe môi hắn khẽ nhếch, trong mắt lại lóe lên tia lạnh lẽo, môi mỏng nhả lời:
"Đó là vườn hoa tường vi, làm hoa công ở Đông cung mà tường vi với nguyệt quý cũng không phân biệt được sao?"
Ta chớp mắt ngơ ngác:
"Ờ… chẳng phải hai thứ ấy cũng na ná như nhau ư?"
Hắn nheo mắt lại:
"Vậy ta hỏi, làm hoa công ở Đông cung, ngươi biết làm gì, ngày thường đảm đương việc gì?"
Ta không dám nhìn vào mắt hắn, chỉ nghịch sợi dây lụa bên hông, lí nhí đáp:
"Chẳng biết gì cả, ta chỉ… đào hố."
Ta lén ngước lên nhìn sắc mặt hắn, lại thấy chẳng những không giận, mà còn khẽ gật đầu:
"Không tệ."
Trong lòng ta thầm mừng, bạo gan nói thêm:
"Ta đào hố là chuyên nghiệp, vừa nhanh vừa gọn."
Hắn lộ vẻ tán thưởng:
"Ừ, rất tốt."
Chẳng mấy chốc ta đã hối hận vì lỡ khoe tài trước mặt chủ tử. Hắn liền dẫn ta ra tiểu hoa viên, bắt nhổ sạch hoa cỏ, lật xới cả mảnh đất thành một thửa ruộng nhỏ.
Ta nghe vậy, đầy vẻ nghi hoặc:
"Ngài muốn trồng rau ư?"
"Ừ, trong bếp vẫn còn gạo mì, nhưng rau củ thì trồng thêm cho chắc, phòng khi cần đến. Với lại…"
Ta chăm chú nhìn hắn.
Hắn lại im bặt:
"Trước cứ xới đất đã."
Trong Đông cung hiện thời chưa lo thiếu đói, nhưng nhàn rỗi mãi chỉ khiến hắn càng thêm bức bối. Nay hắn vực dậy tinh thần, chuyển sang lo việc đồng áng cũng là điều tốt.
Ta không nghĩ nhiều nữa, cùng hắn xắn tay thu dọn, dù sao ngày tháng vẫn còn dài, chẳng vội vã gì, chậm rãi nhổ cỏ, thong thả xới đất.
5.
Nửa tháng trôi qua, tuy đêm đêm cùng ở chung một phòng, nhưng hai người vẫn ngủ riêng giường.
Ban ngày, cả hai cùng nhau khai khẩn ruộng rau, cuối cùng cũng thu được thành quả — nửa sào đất nhỏ.
Quanh đám ruộng nhỏ chất đầy cành khô hoa tàn, ta lắc đầu tiếc rẻ:
"Loại lục mẫu đơn giá trị liên thành này, điện hạ nói nhổ là nhổ."
Mộ Dung Tín chẳng buồn ngẩng đầu:
"Loài danh hoa khuynh quốc, ở phế cung cũng chỉ là ngọc che bùn. Với lại, hoa cỏ đâu có ăn no được bụng."
Ta nghe xong, liền chẳng còn do dự, mấy gốc hoa quý còn sót lại cũng nhổ hết.
Đến lúc nghỉ tay hôm nay, Mộ Dung Tín gọi ta lại, tiện tay cài một cành lục mẫu đơn lên tóc ta, dịu giọng:
"Rất đẹp."
Trong ánh mắt hắn, vẻ u ám tuyệt vọng trước kia đã tan biến không còn.
Ta vui mừng nhào đến ôm cổ hắn:
"Đa tạ điện hạ!"
Hắn bị ta làm cho đỏ bừng cả mặt, không được vui lắm, vội gắt:
"Buông ra!"
Ta ngoan ngoãn thả tay.
Xong ruộng rau rồi, hắn cũng không cho ta đụng vào việc nông nữa, chẳng biết từ đâu lục ra được ít giống rau, tự tay đem gieo trồng.
Ta tò mò nhìn ngắm, không nhịn được hỏi:
"Điện hạ thật tài giỏi, chuyện gì cũng biết."
Hắn liếc mắt nhìn ta, đáp:
"Trong thư phòng có đủ cả bộ ‘Nông tang tập yếu’, nhưng lý thuyết chỉ là giấy trắng mực đen, phải thử thực tế mới biết."
Ta ngồi dưới bóng cây dâu, ngắm hắn chân trần đi lại giữa ruộng, giữa tiết tháng Tư mà trán vẫn lấm tấm mồ hôi.
Lạ thật, rõ là ăn mặc đơn giản như nông phu, chân đất áo ngắn, mà hắn vẫn toát lên dáng vẻ cao quý khó giấu, khiến ta nhìn mãi không chán mắt.
Kết thúc việc đồng áng, hắn lại gần nói:
"Ta muốn khai khẩn một mảnh ruộng nước bên hồ Nguyệt, chi bằng nhổ luôn vườn tường vi kia đi, vừa gần chính viện."
Ta nghe thế liền gật đầu, rồi lại sực tỉnh, cuống quýt nói:
"Không được!"
"Hử?" Hắn nghiêng đầu nhìn ta.
"Đổi chỗ khác đi, ta thích mảnh ấy, mùa hoa nở đẹp lắm." Ta đảo mắt nghĩ ra lý do.
Hắn nhìn chằm chằm ta, ánh mắt như muốn xuyên thấu lòng dạ.
Một lúc lâu, hắn uống ngụm nước, có chút lạnh nhạt:
"Vậy ngươi chọn chỗ nào thì chọn."
Ta thở phào nhẹ nhõm.
Ta liền chọn một nơi cách xa vườn tường vi, phòng sau này ruộng nước mở rộng lại lấn sang hoa viên.
Dĩ nhiên, chỗ ấy cũng cách xa chính viện, ta vốn tưởng hắn sẽ chê trách, không ngờ Mộ Dung Tín chẳng nói gì, cứ thế cúi đầu bắt tay vào dọn dẹp, xới đất, san nền, dẫn nước.
Lại nửa tháng nữa trôi qua, mảnh đất ấy đã được chúng ta vun thành một nửa sào ruộng nước.
Ta lại tò mò hỏi:
"Điện hạ còn muốn trồng lúa nữa sao? Đông cung gạo mì còn đủ dùng lâu lắm mà."
Hắn ngồi xuống cạnh ta, ngắm nhìn thửa ruộng nước vừa được san phẳng, đất còn ướt mềm, chậm rãi đáp:
"Gạo mới lúc nào cũng ngon hơn."
Dừng lại một chút, hắn lại nói:
"Ngày trước, quan nông ở Kim Lăng từng tiến cống giống lúa chín sớm, hạt dài, màu hơi hồng, cơm vừa thơm vừa dẻo ngậy. Trước khi bị phế, ta từng cùng Đại Tư Nông bàn chuyện mở mới vườn Phong Trạch ở ngoại thành, thử trồng giống lúa ấy, thử nghiệm thời vụ và cách gieo cấy, lại còn tính chuyện gây giống lúa chịu lạnh."
"Nếu thành công, có thể mở rộng việc trồng lúa quanh kinh thành, là chuyện lợi nước ích dân lớn lao."
Trong lòng ta chấn động:
"Nhưng cho dù điện hạ thành công, chỉ sợ cũng chẳng nhờ đó mà thoát khỏi cảnh này."
Những lời cay đắng hơn ta không dám nói ra — các huynh đệ của hắn còn bận tranh đoạt long ỷ, ai ngồi lên liền thắng cả bàn cờ, còn hắn, kẻ thất thế bị đẩy khỏi ván bài, dù có dốc lòng cho nông tang, cùng lắm cũng chỉ là dệt gấm cho kẻ lên ngôi mà thôi.
Sắc mặt hắn không đổi:
"Ta vốn cũng từng nghĩ như vậy, nhưng về sau…"
Ánh mắt hắn rơi xuống người ta, khóe môi khẽ nhếch:
"Nhờ ngươi, ta mới hiểu ra, thực ra trong mọi hoàn cảnh, thứ dân chúng dưới đáy xã hội quan tâm chỉ là có đủ ăn hay không."
"Nếu chẳng phải gặp nạn đói, cha mẹ ngươi đã không c.h.ế.c, nhà cữu cữu cũng chẳng bán ngươi đi."
"Nếu giống lúa sớm ấy thành công, hẳn sẽ bớt đi biết bao cảnh ly tán, thương tâm."
Ta khẽ xao động, hỏi:
"Làm sao điện hạ biết được?"
Hắn khẽ thở dài:
"Theo tính toán, năm ngươi ba tuổi, đúng dịp xảy ra đại nạn đói Vĩnh Viêm. Đến tám tuổi, phương Bắc lại mất mùa."