14.
Vương phủ.
Mưu sĩ của Khúc Ung hấp tấp chạy vào thư phòng:
"Vương gia, xảy ra chuyện rồi!"
Khúc Ung cau mày:
"Chuyện gì?"
"Nghe nói đêm qua doanh tuần phòng bắt được một người ở ngoại thành, nghe đâu là một trong những thích khách từng ám sát Bệ hạ ba năm trước. Hiện kẻ đó đã bị áp giải đến Đại Lý Tự!"
Ầm—
Khúc Ung bật dậy, động tác quá mạnh suýt làm đổ cả bàn trước mặt.
Hắn hạ giọng chất vấn:
"Mấy kẻ năm xưa chẳng phải đều đã xử lý sạch sẽ rồi sao?"
"Đúng vậy, Trương Đại bẩm báo là đã làm rất sạch, chỉ là năm đó có một thích khách bị đâm một nhát vào ngực, rơi xuống vực, nên không tìm được thi thể. Không chừng… thật sự là hắn còn sống quay về?!"
"Vô dụng!"
Khúc Ung mắng khẽ một tiếng, đi đi lại lại trong phòng.
"Nếu thật là hắn, thì phiền phức rồi. Mau cho người đi dò xét cho rõ, nhưng không được để lộ dấu vết."
"Tuân lệnh!"
…
Gần đây Đại Lý Tự bận tối mắt, không biết lại bắt được tội phạm đại nghịch nào, nhốt tận nơi sâu nhất trong ngục, lại còn canh gác nghiêm ngặt.
Đến cả ngục tốt mang cơm mỗi ngày cũng phải qua mấy lần kiểm tra.
Trăng lên đầu liễu, trời đã tối hẳn.
Một bóng đen lặng lẽ tránh hết mọi người, lặng yên lẻn vào tận trong ngục Đại Lý Tự.
Hắn thay áo ngục tốt, nhẹ nhàng lẩn tránh, đi tới gian lao ngục cuối cùng, mở khóa bước vào.
"Đáng lẽ phải c.h.ế.c từ lâu rồi, lại cứ cố sống sót, khiến chủ tử chẳng được vui lòng."
Hắn rút dao găm, động tác cực nhanh đâm thẳng vào người đang bị xích sắt trói nơi góc phòng.
Nhưng ngay khoảnh khắc lưỡi dao sắp đâm tới, người tưởng như bất động kia bỗng vung tay, lấy xích sắt đỡ lấy nhát đâm.
Tên thích khách giật mình, lập tức nhận ra không ổn, quay người toan chạy.
Nhưng đã bị nam nhân kia chụp lấy vai, lập tức quật ngã, lôi vào giao đấu.
Càng đánh, thích khách càng kinh hãi.
Hắn hoàn toàn không phải đối thủ của nam nhân ấy!
Tất cả, chỉ là một cái bẫy!
Chẳng mấy chốc, tứ chi của thích khách đã bị nam nhân ấy bẻ gãy, ngay cả quai hàm cũng bị tháo rời, viên thuốc độc giấu trong răng bị móc ra, hoàn toàn bị chế ngự.
Nam nhân ấy vỗ nhẹ lớp bụi trên áo, gom tóc dài rồi buộc lại, lộ ra gương mặt anh tuấn, cứng cỏi.
"Tề…"
Tên thích khách kinh hoàng nhìn hắn.
Vì hàm đã bị tháo, hắn không phát ra nổi một câu hoàn chỉnh.
15.
Lúc ta hạ lệnh khám xét phủ Nhiếp chính vương, Khúc Ung đã chẳng còn ở đó nữa.
Chẳng biết hắn rời khỏi kinh thành từ bao giờ.
Ta lập tức sai người truy bắt, thế mà nửa tháng sau lại nhận được tin: Khúc Ung đã khởi binh ở Lâm Viên thành phía đông, lấy danh nghĩa “thanh quân trắc”, đem theo mấy vạn quân thẳng tiến về vương thành Nam Vệ.
"Hắn lần này, thật sự tạo phản rồi."
Ngày ta tiễn Tề Trấn Hành xuất chinh, mấy vị đại thần vây quanh, tấm tắc khen ngợi.
"Vương phu anh dũng thiện chiến, quả là rồng trong loài người."
"Vương phu với Bệ hạ đúng là trời sinh một đôi!"
"Thật là tuyệt diệu!"
Lũ lão già ấy đổi giọng còn nhanh hơn lật sách.
Tề Trấn Hành phi thân lên ngựa, cúi đầu nhìn ta:
"Đừng lo cho ta, ta đi rồi sẽ sớm trở về."
Hắn nghiêng người, nhẹ hôn lên má ta:
"Nàng cùng hài tử, cứ an tâm đợi ta."
Đội ngũ hùng tráng kéo quân về phía đông.
Đi được một đoạn, ta mới nhận ra trong hàng ngũ có một bóng dáng không ăn nhập gì cả.
Người ấy mặc giáp trụ lỏng lẻo, trông như bị ai bắt ép lên ngựa.
Ta hỏi Trần Mặc:
"Người kia là ai vậy?"
"Là Cẩm Đường công tử."
Ta kinh ngạc:
"Sao?"
"Vương phu nói, nơi hai quân giao chiến địa hình hiểm trở, lại ở Thanh Hổ Nhai, sương mù đá bay dày đặc, nếu biết lợi dụng địa hình, át có thần trợ lực. Cẩm Đường công tử từng ở đó du ngoạn mấy tháng, rất thông thạo địa thế, nên được mời đi cùng."
Ta ngẩn người:
"Cẩm Đường… chịu đi sao?"
"Lúc đầu thì không muốn đi đâu," Trần Mặc cười nhẹ, "Bệ hạ cũng biết, vương phu nhà ta am hiểu quyền cước mà."
Ta: "..."
Trong quãng thời gian Tề Trấn Hành xuất chinh, ta ở trong cung ăn ngon ngủ kỹ, chuyên tâm dưỡng thai.
Bụng đã nhô lên thấy rõ, người cũng tròn trịa ra ít nhiều.
Các đại thần sợ ta mệt nhọc, liền giúp ta gánh vác không ít chính sự.
Bởi vậy cuộc sống cũng khá thong dong, nhàn nhã.
Nhưng thời gian lâu dần, ta lại bắt đầu nhớ Tề Trấn Hành.
Thư chàng gửi về ngắn gọn đến không thể ngắn hơn.
"Bình an, đừng nhớ."
"Đại thắng, đừng nhớ."
Dần dà, ta cũng thôi không gửi thư cho chàng nữa.
Thế nhưng chẳng bao lâu, chính chàng lại tự mình viết thư về.
Thư dài hơn hẳn.
"Phản quân đại bại, hiện đang thừa thắng truy kích tàn binh. Ở Thanh Hổ Nhai có một loại quả dại gọi là quả tương tư, vị chua, chắc nàng sẽ thích. Chỉ là quả ấy khó bảo quản, vận chuyển cũng không tiện, không thì ta đã mang về cho nàng nếm thử. Dưới vách đá có một thôn nhỏ, thoạt nhìn rất giống Đào Nguyên thôn ngày trước ta với nàng từng sống, nếu có dịp, ta sẽ dẫn nàng đến đó, ở lại mấy ngày cũng hay. Mọi sự nơi đây đều yên ổn, nhưng cũng mong phu nhân nơi kinh thành nhớ đến ta nhiều một chút."
Đọc xong thư, ta có thể hình dung ra dáng vẻ lúng túng, không biết viết gì cho phải của Tề Trấn Hành khi ngồi trước bàn giấy.
Bất giác bật cười thành tiếng.
Cười rồi, lại thấy sống mũi cay cay.
Ta xoa xoa bụng:
"Sao, con cũng nhớ phụ thân rồi phải không?"
16.
Sắp vào đầu hạ, Tề Trấn Hành gửi về một bức thư cuối cùng.
Họ đã bắt sống được Khúc Ung, đang áp giải hắn trở về kinh.
Ta mừng rỡ vô cùng, lập tức bật dậy khỏi ghế, nào ngờ vừa đứng lên đã cảm thấy không ổn.
Trần Mặc hoảng hốt:
"Bệ hạ?"
Ta túm lấy tay hắn:
"Mau... mau gọi thái y, ta hình như sắp sinh rồi!"
...
Trong cung nhất thời rối cả lên.
Tay ta bấu chặt lấy chăn gấm, khớp ngón trắng bệch, mồ hôi lạnh thấm ướt cả áo trong.
Bên ngoài trời mưa như trút nước, sấm sét ầm ầm, vậy mà vẫn không át nổi từng tiếng rên đau của ta.
"Bệ hạ cố thêm chút nữa! Tiểu điện hạ sắp ra rồi!"
Tiếng bà đỡ bên tai lúc xa lúc gần.
Một cơn đau xé ruột lại ập tới, ta cắn nát môi, vị máu lan ra trong miệng.
Trong điện ánh nến lay lắt, chiếu lên từng khuôn mặt một lớp bóng tối u ám.
"Đã sáu canh giờ rồi..."
Trần Mặc đi đi lại lại ngoài bình phong, lo lắng hỏi:
"Thái y, tình hình Bệ hạ thế nào?"
Lão thái y râu ria run lẩy bẩy:
"Thai vị có chút bất ổn, nếu kéo dài e là nguy hiểm đến tính mạng..."
"Im miệng!"
Ta hít sâu một hơi, "Ta... ta sẽ không sao..."
Chưa dứt lời, một trận đau nữa cuộn tới.
Trước mắt ta tối sầm, lờ mờ nghe tiếng cửa điện bị xô mạnh.
"Nam Tinh!"
Thanh âm quen thuộc xuyên qua mưa gió, mang theo cả hàn khí lẫn bụi đường.
Ta cố mở mắt, thấy Tề Trấn Hành mặc giáp chưa kịp cởi, mặt mũi ướt nhẹp, lao thẳng đến bên giường.
Cánh tay hắn vẫn còn dính máu, tay đeo hộ thủ chưa kịp tháo.
Hắn biết trên người mình dơ bẩn, không dám chạm vào ta.
Chỉ dám đứng bên cạnh.
"Ta về rồi." Giọng hắn khàn đặc, "Đừng sợ, ta ở đây."
Ta nắm lấy cánh tay hắn, móng tay bấm sâu vào da thịt:
"Tề Hành... ta đau quá..."
Móng tay cào rách da thịt chàng, máu chảy hòa cùng mùi mưa, không hiểu sao lại khiến ta bình tĩnh hơn đôi chút.
"Còn nhớ năm đó ở thôn Đào Nguyên không?"
Chàng kề sát tai ta khẽ thì thầm, "Nàng nhất định đòi học cưỡi ngựa, kết quả ngã xuống trẹo chân..."
Ta yếu ớt gật đầu.
Hồi đó, chàng đã cõng ta đi suốt mười dặm đường núi tìm đại phu, dọc đường còn hái quả dại cho ta ăn.
"Khi ấy nàng đau quá, vừa đi vừa khóc, còn nói từ nay về sau không bao giờ cưỡi ngựa nữa."
Chàng khẽ cười, lau mồ hôi trên trán ta,
"Vậy mà ngày hôm sau đã lại bám lấy ta đòi dạy tiếp..."
Đột nhiên bà đỡ reo lên:
"Thấy đầu rồi! Bệ hạ cố thêm chút nữa!"
Tề Trấn Hành qua lớp áo nắm chặt tay ta:
"Nam Tinh, chịu khó một chút. Chờ con chào đời, ta sẽ dẫn nàng đi Thanh Hổ Nhai xem quả tương tư, bình minh nơi đó còn đẹp hơn ở thôn Đào Nguyên..."
Ta ngẩng đầu nhìn cằm chàng, gom hết chút sức lực cuối cùng.
Theo một tiếng gào xé ruột gan, tiếng khóc của hài nhi vang vọng, xé tan đêm mưa.
"Là một tiểu công chúa!" Bà đỡ mừng đến rớm nước mắt.
Tề Trấn Hành run rẩy đặt một nụ hôn lên trán đẫm mồ hôi của ta, lúc này ta mới thấy nơi khóe mắt hắn cũng ươn ướt.
Ta mệt lả, nhưng vẫn cố hỏi:
"Sao… hôm nay chàng đã về rồi?"
"Ta nhớ nàng quá, liền ngày đêm không nghỉ mà chạy về. May mà… về kịp."
Ngoài cửa sổ, mưa đã tạnh, ánh bình minh đầu tiên xuyên qua tầng mây.
"Tề Trấn Hành…"
"Sao?"
"Giáp của chàng cấn ta quá…"
Bộ dạng lúng túng của chàng lúc cởi áo giáp khiến cả phòng đều bật cười.
Ta ôm lấy đứa bé nhỏ xíu, nhìn chàng lóng ngóng học cách bế con, bất giác cảm thấy—
Thế gian này, quả thật xứng đáng để sống.