Mà thị vệ ấy lại nói:
"Chủ tử, Thập Ngũ đại nhân là sư tổ của thuộc hạ."
Cố Lưu khẽ ngẩn người.
Hắn thực ra đã không nhớ nổi nhiều chuyện nữa, dung mạo của nhiều người cũng không thể gọi tên.
Chỉ còn nhớ, vào một năm nào đó, tháng nào đó, mơ hồ từng có một giấc mộng.
Mơ hồ nhớ, chốn phồn hoa náo nhiệt, một cỗ xe ngựa, còn có một đôi mắt xinh đẹp, trong trẻo.
Khi Cố Lưu lâm chung, quanh hắn là một nhóm người, phần lớn đều chẳng biết con cháu nhà ai, câu cuối cùng hắn nói ra, là một tiếng than thở đầy tiếc nuối:
"Đến tận bây giờ, trẫm vẫn rất muốn mơ thấy nàng…"
Người bên cạnh chẳng rõ là ai, khẽ hỏi:
"Bệ hạ mơ thấy ai vậy?"
Cố Lưu chỉ lặng im.
Những người bên cạnh chờ mãi, run rẩy đưa tay ra thăm dò, mới phát hiện chẳng biết từ khi nào, bệ hạ đã không còn hơi thở.
Trận đại tuyết mùa đông năm đầu Thành An ấy, đã chôn vùi biết bao vui buồn ly hợp của một đời người.
Cố Lưu vĩnh viễn không thể biết, mùa đông năm đó, A Đào đã từng đi giữa trời tuyết, viết xuống mấy hàng chữ băng qua hai kiếp người:
“Ánh trăng vốn nên treo cao nơi từng tầng mây thẳm.
Ta từng giãy giụa trong bùn lầy mà ngước nhìn vầng trăng, ánh sáng ấy chẳng phải vì ta mà sinh ra, nhưng lại thật sự từng soi rọi lên ta, ta lấy nước đục ngầu, nâng lên một bàn tay lấp lánh những vụn ánh trăng.
Về sau, ánh trăng rơi xuống, ta thấy nó chìm vào bùn đất, mất đi ánh sáng, nhưng vẫn cố vùng vẫy bay về trời cao, rồi giữa không trung, đột nhiên vỡ tan thành muôn mảnh.
Sau này, ta có cơ hội, cẩn thận nhặt lại ánh trăng, dồn hết sức lực cả đời, từng bước từng bước, nâng nó về lại chốn mây xanh.
Nơi trời xanh bát ngát, mặt trời làm bạn cùng trăng, muôn sao vây quanh, ráng mây kề bên.
Tạm biệt, vầng trăng của ta.”
Dù là kiếp trước hay kiếp này, dường như giữa họ, chưa từng nói ra một chữ “thích”.
A Đào thuở trước từng có thói quen lải nhải viết thư cho Cố Lưu, bây giờ, những lời tự nhủ ấy, nhất định chẳng gửi được nữa, nàng đành viết thẳng lên mặt tuyết.
Gió vừa thổi, tuyết vừa bay, chữ vừa mới hiện ra đã bị che lấp, sẽ chẳng có ai bao giờ đọc được.
Nàng cảm thấy chẳng còn nơi nào để đi, liền tìm đến chùa hỏi lão hòa thượng, muốn cùng người xuất du sơn thủy, song đến nơi mới hay ông đã sớm rời đi, chẳng rõ tung tích phương nào.
Nàng nghĩ đến nhiều nơi, lại chợt rất muốn về nhà, về tận Lạc Thành xa xôi, về ngôi nhà nhỏ giữa núi rừng heo hút năm xưa.
Rất nhiều năm về trước, nàng đã rời khỏi ngọn núi ấy, trải qua hai kiếp mưa gió, đi qua biết bao nơi, nhìn hết núi cao biển rộng, tận mắt chứng kiến phồn hoa cực thịnh, vậy mà khi cận kề cái c.h.ế.t, thứ nàng khát khao chỉ là quay về góc nhỏ chẳng lấy gì làm đẹp đẽ ấy.
Nơi đó, từng có một A Đào nhỏ bé sinh sống.
Cuối đời, nàng lần bước, lần bước, dốc hết sức tàn, chỉ mong tới gần mái nhà tranh đổ nát.
Thân thể ngày một suy kiệt, kiếp trước nàng từng cứu rất nhiều người, nhưng không thể cứu được Cố Lưu; kiếp này cũng cứu được rất nhiều người, nhưng lại chẳng thể cứu nổi chính mình.
Nàng nhớ ngày rời khỏi căn nhà tranh kiếp trước, dành dụm mãi mới mua được một gói bánh gạo, hớn hở đem tặng nương thân, lại bị ép rời nhà ngay sau đó.
Bánh gạo rơi xuống đất, bị người khác dẫm nát không thương tiếc.
Dù sau này sống đủ đầy, hình như nàng cũng chưa từng ăn lại thứ bánh ngày xưa vẫn thèm khát ấy.
Còn kiếp này, nàng rời nhà tranh là cùng Cố Lưu sóng bước.
A Đào nhớ ngày ấy bị thương ở chân, mắc kẹt trong núi, Cố Lưu đã tìm thấy, cõng nàng trở về.
Đêm ấy, ánh trăng sáng trong rót khắp nhân gian, bầy đom đóm rập rờn dưới chân, nàng tựa trên lưng Cố Lưu, an tâm lim dim ngủ.
Nàng băng núi vượt suối, ngã xuống chỉ cách ngôi nhà tranh đổ nát một đoạn rất gần, chỉ còn mấy bước chân mà không thể gượng dậy đi tiếp.
Sau đó, có người tốt qua đường, chôn cất nàng nơi vườn hoang cũ, trồng lên đó một cây lê, mỗi độ xuân về sẽ nở rộ trắng xóa.
Đời nàng, dường như mùa đông luôn chiếm lấy quá nhiều thời gian, nhưng mỗi một lần gặp gỡ chia ly, đều là vào mùa xuân.
Lần đầu tiên A Đào nhỏ bé gặp Cố Lưu là mùa xuân, kiếp trước bị xô ngã về phía hắn trong cung cũng là mùa xuân, kiếp này nhặt được Cố Lưu nơi miếu hoang, vẫn là mùa xuân.
Nay lại một mùa xuân mới đang về sau cái c.h.ế.t của nàng.
Lúc c.h.ế.t đi, nàng chẳng để lại điều gì, như một nhành cỏ dại năm cũ tàn lụi giữa làn gió xuân đầu năm, chẳng lưu lại dấu vết.
Trong căn nhà cũ sụp đổ cách đó một tấc, trước khi nhắm mắt xuôi tay, dường như nàng đã thấy một bản thân nhỏ xíu ngày nào.
Đó là nàng năm lên năm tuổi, vừa được đặt tên là A Đào.
Ngày ấy, vừa vặn là tết Trung thu, thẩm cho nàng một chiếc bánh, nàng chỉ bẻ một miếng nhỏ, còn lại để lên giường cho nương.
Nàng nâng miếng bánh nhỏ, lại bẻ ra thêm một nửa, kính tặng lên vầng trăng trên trời.
Trẻ con luôn nhiều tưởng tượng, nàng vốn là một đứa trẻ đơn độc, chỉ mong kết bạn cùng trăng, nàng đã có tên rồi.
Vậy nên nàng đem bánh dâng trăng, vừa chào hỏi:
"Xin chào, mặt trăng, ta là A Đào."
…
Về sau nàng lại nói:
"Tạm biệt nhé, vầng trăng của ta."
<Hoàn>
-------------------
Giới thiệu truyện:👉 Ta Giặt Y Phục, Chàng Tẩy Thiên Hạ
Ta vốn chỉ là một nô tỳ giặt áo trong kỹ viện.
Trong cung, Hoàng đế băng hà.
Ngày xuất quan, cờ tang giăng khắp thành, bách tính quỳ rạp đầy đường.
Các cô nương trong Xuân Phong quán không còn khách, ta cũng chẳng còn việc làm.
Thay một thân váy trắng giản đơn, ta dắt theo hài tử hai tuổi.
Xuyên qua ngõ hẹp, bước ra phố lớn.
Hòa lẫn trong đám dân chúng bị quan gia ép buộc đến đưa tang, đợi giờ quỳ tiễn linh cữu.
Trong quan tài kia, chính là vị Hoàng đế điên bị ngàn người ghét bỏ, vạn người khinh chê. Cũng chính là phu quân của ta —— Hoàng Phủ San.
Bình luận