32.
Ván cờ này, cũng nên thu tàn cục rồi.
Liễu Hy Nghiên vốn sinh non, từ nhỏ thân thể yếu ớt nhiều bệnh, lại ít khi sống ở tướng phủ, Liễu phu nhân vì thương nhớ nữ nhi, hơn mười năm nay, tháng nào cũng lên núi cầu phúc, mong cho nàng bình an khỏe mạnh.
Muốn tình cờ gặp bà một cách thuận lợi, ta đã cố ý từ mấy tháng trước, thường xuyên đến cùng một ngôi chùa, nói là vì cầu phúc cho Hoàng thượng, kỳ thực là nhàn tản theo lão hòa thượng câu cá.
Câu được lại thả, thả rồi lại câu.
Ta ở bên quấy rối, cá lớn xấu xí thì đem nướng ăn, đám mèo hoang chen nhau tranh giành với ta, còn cá nhỏ đẹp đẽ thì không nỡ thả, gom lại cả thảy giao hết cho Cố Lưu nuôi, còn lại đều thả đi.
Ta tự nuôi cá thì cá nào cũng c.h.ế.t, may mà Cố Lưu cái gì cũng rành.
Hòa thượng không sát sinh, nhưng cũng chưa bao giờ ngăn ta.
Ta vốn không cần vì ai mà cầu phúc nữa, từ rất lâu rồi, ta đã cầu khấn trời xanh không biết bao nhiêu lần, mà sự thật cho thấy chẳng hề có tác dụng.
Ta muốn ai khỏe mạnh bình an, ta sẽ tự mình lên kế hoạch từng bước một.
Hôm ấy cũng là ngày Liễu phu nhân lên núi, ta đã ngồi nghe lão hòa thượng giảng kinh cho tiểu hòa thượng khá lâu, nghe tin bà đến, bèn đứng dậy thong thả ra ngoài, trời lúc đó đen kịt, quả nhiên bất ngờ đổ mưa lớn, ta liền tránh mưa ở một gian đình nhỏ, chẳng bao lâu sau, Liễu phu nhân trên đường về cũng ghé vào đình ấy trú mưa.
Ta đứng ở rìa đình, phóng mắt nhìn ra ngàn núi vàng úa, mưa giăng mờ mịt, hơi nước mát lạnh phả vào mặt.
Ta quay người, chào bà một tiếng.
Liễu phu nhân không tự chủ được mà quan sát ta kỹ lưỡng.
Ta chủ động bắt chuyện, trò chuyện một hồi, rồi bảo:
“Phu nhân, có một câu chuyện nhỏ, ta nghĩ phu nhân hẳn sẽ muốn nghe.”
“Ngày xưa, có một thư sinh xuất thân bần hàn…”
Ánh mắt bà lập tức trở nên thấu hiểu, chắc bà nghĩ ta sắp kể chuyện về nương ta và Liễu Thanh Thạch, nhưng ta lại nói tiếp:
“Hắn không từ thủ đoạn vào hoàng thành, thi đỗ trạng nguyên, cưỡi ngựa diễu phố, vẻ vang không kể xiết, song chẳng mấy chốc đã phát hiện ra, những kẻ từng thua kém hắn, rốt cuộc ai nấy đều leo lên chức vị cao hơn, vì bọn họ đều là con cháu thế gia, còn hắn không hề có chỗ dựa, đường quan lộ nhìn một cái đã biết tận cùng ra sao.”
“Hắn chẳng cam lòng dừng lại tại đó, liền nhắm vào một trong những thế gia quyền quý nhất kinh thành, chọn lấy vị tiểu thư đích nữ nhà họ Lý đang tuổi chờ gả, trong một lần du xuân, ngâm đúng bài thơ hợp ý nàng, khiến nàng lưu tâm chú ý. Hai người hữu duyên vô phận, tình cờ gặp nhau khắp nơi, Lý tiểu thư dần đem lòng thương nhớ, cuối cùng gả cho hắn làm thê tử. Nàng không hề hay biết, mọi lần gặp gỡ đều là do thư sinh sắp đặt, kể cả lần suýt bị hãm hại rồi được cứu cũng là do hắn sắp đặt để tạo hình tượng anh hùng cứu mỹ nhân.”
“Sau khi thành thân, để lấy lòng nhà vợ và tạo tiếng tốt yêu thương thê tử, hắn đuổi hết các cơ thiếp cũ. Người ngoài nhìn vào đều ngỡ là lang quân tốt hiếm có trên đời, chẳng ai ngờ hắn vì muốn chèn ép kẻ địch, lại tự tay bày kế cho thê tử đang mang thai rơi xuống nước, vu oan cho một phi tần được sủng ái của kẻ địch, thành công khiến phi tần bị thất sủng, đối phương thất thế. Thê tử hắn vì cứu con mà sinh non suýt mất mạng, liều mình giữ được đứa nữ nhi, từ đó về sau không thể sinh nở nữa, mà thư sinh thì đ.á.n.h bại đối thủ, lại còn được Hoàng đế cảm thương, đường quan lộ thuận buồm xuôi gió. Đáng thương cho Lý tiểu thư, vì không thể sinh trưởng tử mà luôn áy náy, cảm động rơi nước mắt khi nghe phu quân hứa sẽ không bao giờ phụ mình.”
“Sau nữa, đứa nữ nhi sinh non ấy lớn lên vô cùng vất vả, thư sinh lại mưu tính để gả con vào nhà quyền quý. Khi nhị công tử nhà kia đ.á.n.h nhau, hắn cố ý để nữ nhi mình ngang qua, khiến nàng bị vạ lây, thân thể vốn yếu đuối lại càng nguy kịch, phải điều trị mấy tháng trời. Nhị công tử vì áy náy nên đích thân chăm sóc, hai người như mong đợi mà trở nên thân thiết…”
Hai đời làm người, ta đã nhìn rõ lòng dạ từng người một, Liễu Thanh Thạch là kẻ giả nhân giả nghĩa, vì lợi ích mà không từ thủ đoạn, thực ra trong lòng ông ta chẳng thương ai, chỉ thương chính mình.
Kiếp trước, ông ta hao tâm tổn sức sắp đặt cho ta thay Liễu Hy Nghiên vào cung, cũng chẳng phải vì thương tiếc nàng, mà chỉ bởi nàng là đích nữ, là quân cờ tốt nhất, ông ta muốn giữ lại làm việc lớn.
Nói xong, ta nhìn sang nữ nhân đối diện đã đờ đẫn cả người, cười khẽ:
“Mưa ngớt rồi, Liễu phu nhân về phủ có tiện cho tiểu nữ đi cùng một đoạn không?”
Nghe ta gọi như vậy, bà không phản đối, hẳn đã ngầm chấp nhận lời ta nói.
Lên núi ta cưỡi ngựa đến, trước khi đi bèn gửi lại cho lão hòa thượng:
“Từ nay về sau ta sẽ không tới nữa, con ngựa nhỏ này theo ngài có khi còn tốt hơn.”
Lão hòa thượng là đời trước của trụ trì, tuổi đã ngoài bảy mươi, tùy ý làm những điều mình muốn, thường hay vân du sơn thủy, con ngựa nhỏ theo ông, không phải suốt ngày bị nhốt trong chuồng, cũng coi như là phúc.
Lão nhân không nói lời từ biệt, giống như mỗi lần ta rời đi đều bình thường như vậy, chỉ phẩy tay ra hiệu cho ta mau đi, cuối cùng không còn ai ngăn trở việc ông câu cá nữa. Nhưng lần này, ta vừa đi được mấy bước, lão lại gọi với theo ta.
Ông lặp lại lời dặn năm xưa từng nói với ta, lúc ấy ta còn chưa quen đường lối trong chùa, bị lạc rồi gặp lão trụ trì bên suối sau núi. Ông nhìn ta mấy lượt, mới bảo:
“Tiểu cô nương, nghịch thiên đổi mệnh, là phải thay người gánh chịu nhân quả đó.”
Quả là cao tăng mỗi ngày thong dong câu cá mà tiếng thơm vang xa, đức vọng tràn đầy, đôi mắt tinh tường như nhìn thấu hết thảy thế gian.
Lúc chia tay, ông lại dặn dò một lần nữa, ta vẫn không đáp lại, chỉ thấy lão nhân đưa cho ta một danh sách địa chỉ các ngôi chùa rải rác khắp năm châu bốn biển, nói sau này ông sẽ đi các nơi ấy hoằng pháp, nếu ta không còn việc gì làm, có thể tìm ông, cùng du ngoạn bốn phương.
Ta đáp “được ạ”.
Rồi quay người lên xe ngựa của phu nhân xuống núi, dọc đường phong cảnh tiêu điều, ta còn nhớ kiếp trước đi qua đây, Cố Lưu từng dẫn ta đi săn, đói bụng thì ghé vào chùa ăn ké bữa cơm chay của hòa thượng.
Vẫn là ngôi chùa ấy.
Về tới thành, đến gần tướng phủ mới phát hiện trước cửa phủ đã bị dân chúng vây chật như nêm cối, từ xa xa còn lờ mờ thấy có người quỳ trước cổng khóc lóc.
Là một cặp mẫu tử nhếch nhác, nhìn thật thê lương đáng thương, giữa phố lớn mà khóc lớn kể bí mật của lão Thừa tướng, tố cáo hắn mưu tài hại mệnh, cướp đoạt tiểu thư nhà lành, rồi lại vứt hai mẫu tử đang mang thai lên núi cho tự sinh tự diệt, hai mẫu tử vất vả hơn mười năm mới tìm được kẻ bạc tình, ai ngờ hắn nay đã công thành danh toại, lấy tiểu thư nhà quan làm chính thất.
Hai người này diễn xuất chuyên nghiệp vô cùng, vừa khóc vừa kể chuyện rành rọt, nước mắt đầm đìa, kể lể cảm động, dân chúng vây quanh phẫn nộ, ai nấy đều phỉ nhổ vào sư tử đá trước cửa tướng phủ, truyền miệng khắp kinh thành, danh tiếng Thừa tướng một thời văn chương gặp giai nhân, phút chốc trở thành trò cười thiên hạ.
Phu nhân lặng lẽ buông rèm xe, đưa ta về phủ xong, cũng im lặng rất lâu, chỉ để lại một câu:
“Đại công tử có ngươi, quả thật là phúc phận lớn lao.”
Ngày hôm sau, cùng với chuyện cũ tình nhân cũ của Thừa tướng lan truyền khắp thành, còn có tin tức Thừa tướng phu nhân hưu phu đưa nữ nhi về nhà mẹ đẻ, nghe nói phu nhân đã lớn tiếng tuyên bố, từ nay hai người đoạn tuyệt hoàn toàn.
Điều ấy đồng nghĩa, nhà họ Lý và tướng phủ từ nay trở mặt.
Sau đó, còn có tin chấn động hơn tiếp nối truyền tới.
Ta thả vị thần y kia ra, sau bao năm bị độc hành hạ, người gầy chỉ còn da bọc xương.
Người ngoài nhìn vào chỉ biết thần y đi xa về thăm trò cũ, vào cung một chuyến thì phát hiện trong túi thơm của Hoàng thượng có độc tính ngấm lâu ngày, dù không làm hại thân thể nhưng truy ra mới thấy là Tôn Quý phi mượn tay Hoàng thượng bỏ độc cho Diệp Hoàng hậu, năm xưa Hoàng hậu đột nhiên bệnh mất cũng rất có thể là do ả, mà thuốc độc là Liễu Thừa tướng cung cấp.
Hoàng thượng nghe xong lập tức lại phun ra một ngụm m.á.u.
Kỳ thực chuyện này ta không hãm hại oan cho Tôn Quý phi, ả thật sự làm ra những việc ấy, kiếp trước Diệp Hoàng hậu c.h.ế.t chắc cũng vì vậy, kiếp này ta ra tay trước mới cứu được người.
Ta không nói sớm cho Hoàng thượng, chính là để chờ một thời cơ tốt nhất, để thần y kia vạch trần, bề ngoài ông ấy là sư phụ ta, y thuật vốn nên cao hơn ta, mấy năm ta ở trong cung mà không phát hiện ra dấu hiệu gì, để ông ấy phát hiện mới hợp lý, không khiến Hoàng thượng nghi ngờ năng lực của ta.
Hoàng thượng vừa tỉnh lại, thần y đã bị xe ngựa của Liễu Thanh Thạch đâm c.h.ế.t ngay ngoài phố.
Vị thần y này nhiều năm về kinh hành y cứu người, được lòng dân kính trọng, bao người tận mắt nhìn thấy ông bị xe tướng phủ đâm c.h.ế.t giữa ban ngày, cả thành phẫn nộ, cộng thêm chuyện mẫu tử tố khổ mấy hôm trước, bao năm tạo dựng danh tiếng tốt của Liễu Thanh Thạch phút chốc sụp đổ.
Thanh danh ông ta từng dựng lên quá hoàn mỹ, nên giờ bị phản phệ càng dữ dội, hàng loạt dân chúng liên kết dâng thư xin phế bỏ Thừa tướng.
Hoàng thượng gắng gượng bệnh tật, giáng Tôn Quý phi thành mỹ nhân, phế chức Liễu Thừa tướng, đày ra khỏi kinh thành, nhà họ Lý là nhà đầu tiên đổ thêm dầu vào lửa, quỳ xuống ca tụng Hoàng thượng anh minh.
Nhưng Liễu Thanh Thạch bao năm gốc rễ ăn sâu, quan hệ lợi ích phức tạp, lại còn không ít văn thần võ tướng dâng sớ cầu tình, Hoàng thượng cũng đành rút lại mệnh lệnh, tạm thời giam ông ta vào đại lao chờ xử lý.
Ta tới nhà giam thăm ông ta, xung quanh đều là người của Cố Lưu nên ta cứ yên tâm nói thật, cuối cùng cũng thừa nhận thân phận:
“Phụ thân đại nhân, ngày ấy người phái người ám sát ta, chẳng hay có nghĩ đến kết cục ngày hôm nay hay không?”
Cuối cùng, Liễu Thanh Thạch cũng nhận ra thủ đoạn “nâng lên rồi đập xuống”, ly gián, giá họa của ta, ông ta cười lạnh:
“Ngươi tưởng như vậy đã có thể kéo đổ bổn tướng sao?”
Dĩ nhiên là không thể, con rết trăm chân dù c.h.ế.t cũng chưa cứng đờ ngay.
Vậy nên hôm nay ta tới, chính là muốn thêm một chiêu nữa, dù đơn giản ngây thơ, nhưng vạn lần thử đều linh nghiệm: phép khích tướng.
Ta cũng cười:
“Chẳng phải đã kéo đổ rồi sao?
Thưa Thừa tướng đại nhân, ăn cơm thiu, nằm trên cỏ khô, mình đầy rận rệp, còn dám mạnh miệng nói lời lớn lao à?”
Liễu Thanh Thạch tức đến nỗi phất mạnh tay áo, quay lưng lại phía ta.
Ra khỏi nhà lao tối tăm, Cố Lưu đã đứng chờ sẵn ở cuối hành lang sáng tràn ánh dương, ánh nắng chiếu lên khuôn mặt hắn, ngũ quan tinh xảo như ngọc, sáng rực một mảnh.
Hắn kéo ta lên xe ngựa, tiện tay lau đi vết m.á.u dính trên mặt ta lúc ngang qua hình phòng, trong mắt sâu thẳm phản chiếu gương mặt thanh khiết của ta:
“A Đào, ngươi gầy đi nhiều rồi.”
Ta nắm lấy tay hắn, kéo lên véo mạnh thịt trên má mình:
“Nhiêu đây thịt, ngươi nói bậy gì đó?”
Cố Lưu bật cười.
Sau khi đón ta, Thập Ngũ đ.á.n.h xe đưa chúng ta tới một tửu lâu yên tĩnh, cả buổi chiều đều ở trên lầu, đến tận tối thì bên phòng kế bên có người lần lượt tiến vào.
Bọn họ không biết, sau chậu cảnh ở góc phòng có một lỗ nhỏ, từng cử chỉ động tĩnh của họ đều bị chúng ta trông rõ.
Ta thấy, Liễu Thanh Thạch bịt kín mít, còn có Tôn Quý phi cùng một số mưu sĩ trong tướng phủ tụ lại bàn chuyện.
Liễu Thanh Thạch xuất hiện ở đây ta chẳng lấy gì làm lạ, chắc chắn đã dùng thế thân chịu tội thay mình ở ngục, còn ông ta thì kim thiền thoát xác, lén lút mưu tính lật mình.
Bọn họ bàn mưu tính kế gì ta đều đoán được, cũng chỉ là chuyện bức vua tạo phản mà thôi, chẳng qua bọn họ đâu hay biết, chính ta và Cố Lưu đang dắt họ lên con đường này.
Ta chịu trách nhiệm tạo thế bức bách, đẩy Liễu Thanh Thạch và Tôn Quý phi vào đường cùng, còn Cố Lưu thì đảm đương phần mua chuộc.
Hắn đã sớm chuẩn bị một miếng ngọc bài giả, cố ý để Tôn Quý phi “tình cờ” nhặt được, lại ngầm để thuộc hạ giả làm mật quân đến đầu quân cho bọn họ, thế là Liễu Thanh Thạch và Tôn Quý phi cứ đinh ninh trong tay mình có được quân át chủ bài.
Thực ra, quân át ấy là giả, rất nhiều quan viên mà họ lôi kéo cũng chỉ làm bộ, ngay cả vài tên mưu sĩ bên cạnh hiện giờ cũng là người của Cố Lưu.
Bọn mưu sĩ phòng bên đều nói mùa thu săn bắn là thời cơ tốt nhất để bức vua tạo phản, cơ hội ngàn năm khó gặp, thế là bọn chúng vội vã chốt kế hoạch.
Đợi bọn chúng đi rồi, ta với Cố Lưu men mật đạo rời tửu lâu, nơi này vốn là chỗ tụ họp bí mật của bọn chúng, mà Liễu Thanh Thạch đến giờ vẫn không biết, chủ tiệm đã sớm quy phục về người khác.
Đến ngày thu săn, Hoàng thượng chỉ tượng trưng cưỡi ngựa đi săn vài con thú, ai ngờ lại bị một đội binh mã lạ vây chặt, Cố Lưu vì cứu phụ thân mà cùng bị ép đến bờ vực, cuối cùng dẫn Hoàng thượng cùng nhau nhảy xuống vực sâu…
Dưới vực tìm mãi chẳng thấy người, tin truyền ra ngoài: Hoàng đế cùng Yến vương bị thích khách tập kích trong buổi thu săn rồi mất tích.
Triều đình không người chấp chính, Liễu Thanh Thạch được mời từ ngục ra để ổn định cục diện. Ông ta làm bộ làm tịch, cho người tìm kiếm mấy hôm, liền xác định không thể tìm được, bắt đầu sắp đặt tang lễ, rồi nhanh chóng tiến hành lễ đăng cơ tân đế.
Thế là Nhị hoàng tử nối ngôi, Tôn Quý phi bị giáng làm mỹ nhân liền thành Thái hậu, Liễu Thanh Thạch trở lại ngôi Thừa tướng, cuối cùng lại được phong làm Nhiếp chính vương.
Mọi sự đúng như mong muốn của bọn họ, vinh hoa rực rỡ.
Nhưng Cố Lưu nào phải kẻ dễ đối phó đến vậy?
Để bọn chúng thành công một lần, chính là để dụ ra tất cả thế lực ngầm và sáng của chúng, chờ lúc bọn chúng sơ hở nhất sẽ tóm gọn trong một mẻ lưới, không chừa hậu họa.
Quả nhiên cũng đúng như ý ta, chỉ có chút ngoài ý muốn, lúc hỗn loạn ở trường săn mùa thu, ta đi sát bên Hoàng đế lại bị lạc mất, bị Liễu Thanh Thạch bắt giữ.
Thời gian Cố Lưu cùng Hoàng đế biến mất, ta bị nhốt lại trong phủ của mình, bị “giam lỏng”.
Không ngờ đêm đó, Cố Lưu lại liều mình tìm đến, muốn đưa ta đi, nhưng ta đã từ chối.
Giờ này nếu ta đột ngột biến mất, tất sẽ khiến bọn chúng cảnh giác.
Sau mấy ngày bị giam lỏng, ta phát hiện bản thân chẳng có gì phải lo, Liễu Thanh Thạch căn bản không định trả thù ta, ông ta không nỡ g.i.ế.c ta.
Trong ba nữ nhi, ta là đứa tàn nhẫn nhất, thông tuệ nhất, dung mạo cũng xuất chúng nhất, bởi thế càng khiến ông ta tán thưởng.
Ta là mối họa thì ông ta không do dự ra tay, nhưng không còn uy hiếp, dù ta từng bày kế hãm hại ông ta, ông ta cũng chẳng bận lòng, vẫn muốn đem tên ta ghi vào gia phả Liễu gia.
Thêm nữa còn có Cố Cẩm – mặc long bào vàng, ngồi trên long ỷ tôn quý, mà vẫn vô dụng như xưa, Tôn Thái hậu tìm ta gây phiền, hắn liền xách theo một dải lụa trắng trèo lên cây bên cạnh vừa mắng vừa khóc, dọa treo cổ tự tử cho cả thiên hạ xem.
Làm Hoàng đế bù nhìn, cũng đủ khiến quyền thần, Thái hậu đau đầu.
Chỉ có một chuyện không hay, là Cố Cẩm cứ muốn lập ta làm Hoàng hậu, lần này lại chẳng ai phản đối, ngoài Liễu Hy Nghiên.
Cũng đúng thôi, vị trí Hoàng hậu của bù nhìn chẳng ai tranh giành.
Ta lại bị chuyển vào cung cấm túc, Liễu Hy Nghiên nghe tin liền vội vã trở về từ trang viên, mang kiếm xông vào, chỉ vào ta quát:
"Dựa vào đâu mà là ả được làm Hoàng hậu?"
Cố Cẩm vội vàng kéo ta ra sau lưng, chắn mũi kiếm, cố gắng dùng lời lẽ mềm mỏng thuyết phục:
"A Nghiên, đao kiếm vô tình, nàng bỏ kiếm xuống trước rồi nói chuyện được không?"
Liễu Hy Nghiên giận dữ hét lên không chịu, hai người giằng co chưa xong, ta liền vòng qua Cố Cẩm, đưa tay mềm mại cầm lấy mũi kiếm sắc lạnh, trong điện bỗng im phăng phắc.
Nhìn vào đôi mắt nghi hoặc của Liễu Hy Nghiên, ta khẽ mỉm cười, chầm chậm đẩy lưỡi kiếm cắm vào ngực mình.
Ta nhìn nàng, nở nụ cười nhạt, giọng thật nhẹ:
"Sao ngươi cứ thích dọa người như vậy?"
Tính nàng dù ngang ngược, cũng không tới mức thật sự g.i.ế.c người, khi m.á.u chảy theo lưỡi kiếm, nàng mới hoàn hồn, mặt trắng bệch, kéo lấy Cố Cẩm la hét:
"Mau gọi ngự y! Mau lên, nhanh lên a!"
Cố Cẩm trực tiếp bế ta chạy về phía Thái y viện, các ngự y vội vàng bận rộn cứu chữa, Liễu Hy Nghiên cũng không chịu rời đi, khóc thút thít bên cạnh:
"Liễu Thiêm, ngươi đúng là kẻ điên! Ngươi tuyệt đối không được c.h.ế.t a!"
Nghe mà thật nhức đầu, tự mình đâm mình, tất nhiên biết chỗ nào không chí mạng, nhưng đau thì vẫn là đau.
Làm vậy, cũng chỉ để tránh chuyện thị tẩm, trì hoãn nghi lễ lập Hậu, nhất thời nghĩ ra, chưa phải kế sách vẹn toàn.
Vết thương đau, tim cũng đau.
Cảnh tượng huyên náo này, chẳng khác gì đời trước ta bị Vệ Khinh Vũ đâm xuyên tim.
Đầu óc ta choáng váng vì đau đớn, trong tiếng ồn ào ấy mà ngất đi.