Nàng đến không ai nhận ra, chỉ có Cố Lưu giữa biển người, liếc mắt một cái đã nhận ra nàng.
Ấy chính là người mà giữa muôn vạn chúng sinh, hắn chỉ cần một ánh mắt đã có thể nhận ra.
Hắn thỉnh thoảng lại mơ thấy những giấc mộng kỳ lạ, tuy tỉnh dậy liền quên sạch nội dung, nhưng lại mơ hồ nhận ra, những chuyện ấy, vốn chưa từng thực sự xảy ra.
Chẳng hạn như có lần mơ mình là một bạo quân g.i.ế.c người như cỏ rác, suýt chút nữa bóp c.h.ế.t A Đào, may mà bị nàng dùng dao đâm xuyên bàn tay mới tỉnh lại.
Trong mộng, hắn cảm thấy vô cùng áy náy.
Khi ấy, hình như hắn với A Đào còn chưa thân thiết, nhưng rõ ràng nàng không giống những người khác. Hắn đối với mọi người đều chán ghét, ngay cả bản thân cũng chẳng tha, chỉ riêng tiểu cô nương ấy, tựa hồ một vũng nước trong xanh, khiến hắn không nỡ khuấy động.
Hắn lại mơ thấy A Đào nuôi một con thỏ, rất xấu, nhưng nàng yêu quý hết mực, sau bị chó cắn c.h.ế.t, tiểu cô nương suýt khóc, nhìn thì uất ức tội nghiệp, mà cứ cắn răng chịu đựng không chịu rơi lệ.
Không phải nàng không biết khóc, chỉ là nước mắt ấy với nàng cũng là một loại vũ khí. Lúc giả vờ, nước mắt muốn đến là đến; còn khi thật sự muốn khóc, lại đã thành quen với việc cố kìm nén, như thể chỉ cần tỏ ra mạnh mẽ là sẽ không ai làm tổn thương nàng nữa.
Người mẫu thân ấy, vốn cũng chẳng nuôi dưỡng nàng cho ra gì.
Đến khóc còn không dám khóc, hẳn thuở nhỏ chịu uất ức, mỗi lần khóc đều chỉ nhận lại quở trách.
Khi ấy, có lẽ hắn vẫn là một kẻ xấu xa, vậy mà trái tim lại mềm nhũn không chịu nổi.
Hắn không kiềm được bản thân cứ nghĩ về nàng, thấy nàng tủi thân mất mát, trong lòng cũng xót xa cồn cào.
Về sau, hắn từng bước dìu dắt, dạy nàng trưởng thành, giúp nàng mạnh mẽ hơn. Mỗi lần nàng hoài nghi, tự ti về bản thân, hắn lại trịnh trọng nói: ngươi rất tốt.
Rốt cuộc hắn cũng nuôi nấng tiểu cô nương ấy thật tốt.
Rồi hắn dần nhận ra, nàng đối với hắn, rốt cuộc có ý nghĩa như thế nào.
Khi còn trẻ, chỉ tùy tiện tỏa chút ánh sáng lên nàng, thế sự xoay vần, hắn dần hóa thành một kẻ xấu xa trái ngược, nhìn đời chỉ thấy ác ý, cũng chỉ nhận được ác ý, nhưng A Đào lại là phần thiện tâm duy nhất hắn lưu lại giữa cõi đời này.
Là nơi ký thác phần thiện lành còn sót lại trong tâm hồn hắn.
Bề ngoài thì có vẻ là hắn luôn luôn cứu rỗi A Đào.
Thực ra, ở một nghĩa nào đó, nàng cũng là cứu rỗi của hắn, là hình bóng bản thân cũ mà không biết gửi nơi đâu, là nơi hắn duy nhất được thả trôi mọi ngổn ngang.
Tỉnh giấc, Cố Lưu chẳng nhớ mình đã mơ gì, chỉ không hiểu vì sao lại cho người tìm rất nhiều thỏ con về nuôi. Nhưng nuôi một thời gian, lại cảm thấy vô vị.
Trong lòng cứ mãi trống rỗng không sao lấp đầy, có cảm giác hẫng hụt, lạc lõng khôn nguôi.
Mãi về sau, một đêm nọ, hắn bất chợt tỉnh giấc, cũng chẳng rõ mình nghĩ gì, nửa đêm cầm đèn lang thang ra chỗ chuồng thỏ, từng cái từng cái mở hết lồng, thả bọn chúng đi.
Ngực hắn nặng trĩu, nặng tới khó thở.
Hắn thì thào:
"Đây không phải thỏ con của ta…"
Thời gian trôi như bóng câu ngoài cửa sổ. Trong tẩm cung của Cố Lưu, nơi chứa đựng nhiều cơ mật quốc sự nhất, vẫn lặng lẽ treo một chiếc đèn cầu phúc cũ kỹ. Chữ viết trên chụp đèn đã ngả vàng, vẫn còn đọc được: “Nguyện quân trường mệnh bách tuế, tuế tuế bình an” (Nguyện chàng sống lâu trăm tuổi, năm nào cũng được bình an).
Cố Lưu không còn nhớ mình bao nhiêu tuổi nữa, tiểu công chúa ngày nào chỉ cao đến thắt lưng giờ đã trưởng thành, trên mặt bắt đầu xuất hiện nếp nhăn, thường nghe các cận thần vừa khóc vừa bảo công chúa thế nọ thế kia, chỉ tiếc mỗi tội… mặt chẳng còn xinh như trước.
Cố Lưu thấy chẳng hề gì, thông minh là được rồi.
Hắn lại nuôi đầy ao những loài cá nhỏ đẹp mắt, càng ngày càng nhiều, phủ kín hết cả hồ nước trong cung. Quá nhiều, hắn quyết định thả chúng về con suối sau núi.
Tới nơi, nghe nói trụ trì già trong chùa gần đó sắp viên tịch, Cố Lưu được mời tới, lão hòa thượng râu tóc bạc phơ, sống đã mấy chục năm, già đến mức lời nói cũng khó nhọc. Lão nhìn Cố Lưu, trong mắt đượm nét từ bi già cỗi.
Lão nói:
"Ở bờ suối sau núi có một con ngựa già, ngày trước từng được một tiểu cô nương nhờ lão trông nom, chớp mắt đã nhiều năm qua rồi."
Nói xong, lão hòa thượng lặng lẽ nhắm mắt, Cố Lưu bước tới dò hơi thở, người đã lìa cõi đời, tiểu hòa thượng trong chùa khóc rưng rức.
Cố Lưu đi dọc tới bờ suối sau núi, chỗ lão hòa thượng thường ngồi câu cá thuở sinh thời, giờ phủ đầy rêu xanh cỏ dại. Thả hết những con cá nhỏ xuống nước, Cố Lưu chợt nhìn thấy bên cạnh là một con bạch mã già nua.
Hắn định dắt ngựa về cung, để ngự mã phu chăm sóc cho đến lúc nó già c.h.ế.t. Nhưng vừa ra khỏi cổng chùa, bạch mã dường như cảm nhận được điều gì, đôi mắt cũng rớm lệ.
Từ nhỏ, nó đã theo lão hòa thượng chu du sơn thủy, nhìn thấu nhân tình thế thái, người và ngựa như tri kỷ nhiều năm.
Sau khi lão hòa thượng viên tịch, con ngựa vốn còn khỏe mạnh bỗng đổ bệnh, rồi c.h.ế.t đi trong một đêm bình thường.
Chẳng biết trước lúc lìa đời, nó có còn nhớ khi xưa được tung hoành trên sườn núi đầy hoa xuân, chủ nhân từng đội vòng hoa lên đầu nó, cùng nhau chạy nhảy, quấy rối lão hòa thượng ngồi câu cá…
Đó là tuổi thơ không thể quay lại nữa của nó.
Về sau, khi mẫu hậu của Cố Lưu đã già, bà thường ngồi sau khung cửa sổ trên tường, chuyện trò với nữ nhân điên bị nhốt trong tây viện. Dù đối phương có khi nghe không hiểu, nhưng những bạn khuê phòng thuở thiếu nữ của bà, người thì gả đi xa xứ, kẻ đã về đất, trên đời chẳng còn ai để bà thủ thỉ tâm tình.
Nữ nhân điên ấy cũng đã tóc bạc, chẳng còn cuồng loạn như xưa, cả ngày chỉ ngẩn ngơ nhìn mặt trời mọc rồi lặn. Chỉ khi có người đi ngang qua, bà mới bám vào cửa sổ, cất tiếng hỏi:
"Ngươi thấy A Đào của ta đâu không?"
Không ai đáp lời bà.
Về sau, nữ nhân điên ấy c.h.ế.t vào một đêm tuyết lạnh, khi c.h.ế.t còn nằm bên giường, dường như đang cố bò về phía góc phòng, có lẽ lúc lâm chung lại sinh ra ảo giác, nhớ tới ngày nữ nhi vừa mới chào đời, bị mình ném vào góc đất suốt một đêm dài.
Nữ nhân điên c.h.ế.t rồi, Diệp phu nhân chợt cảm thấy trống vắng, cũng ít nói hẳn đi, qua thêm mấy năm nữa, bà ra đi thanh thản, chẳng bệnh tật gì.
Cố Lưu ôm lòng nặng trĩu, thay bà tổ chức đại tang, long trọng vinh hiển.
Quan viên khắp nơi kéo về kinh dự lễ, không ít lão thần năm xưa đã qua đời, trong triều xuất hiện nhiều gương mặt mới, Cố Lưu nhìn thấy một người, cảm giác có chút quen, hỏi ra mới biết là nhi tử út của Liễu Hy Nghiên, vừa được đề bạt lên.
Cố Lưu hỏi thăm về phụ mẫu thân quyến, vị quan trẻ tuổi hốt hoảng quỳ xuống:
"Tổ mẫu của thần đã mất từ lâu, phụ mẫu hiện đang ở Lâm An trông nom đàn cháu…
Mẫu thân đã lâu rồi chẳng nhắc tới cố nhân."
Cố Lưu cho lui, tới yến tiệc trong cung lại nhìn thấy Vệ Khinh Vũ, đã mấy chục năm không gặp, Vũ An hầu sớm quy tiên, Vệ Khinh Vũ kế thừa tước vị, quanh năm ở quân doanh, nay đã thành nữ tướng uy nghiêm mạnh mẽ, bên mình theo mấy mỹ nam trẻ tuổi và một đứa nhi tử chưa lớn.
Mọi người đều đi về phía tương lai, chỉ riêng Cố Lưu, dường như vẫn dừng lại ở mùa đông Thành An năm đầu ấy.
Trận tuyết lớn năm ấy, phủ trắng cả cuộc đời hắn.
Sau này, Vệ Khinh Vũ tử trận nơi sa trường, con cháu bày đầy bánh ngọt trước mộ nàng; Liễu Tích Dung trở thành "Tích Dung cư sĩ" lừng danh, học trò khắp thiên hạ, tân khoa trạng nguyên trong triều chính là học trò của nàng; Lục Cẩm sau khi lão gia mất thì bất ngờ trưởng thành, chủ động học buôn bán tính sổ, gánh vác cơ nghiệp Lục gia, xuôi ngược Nam Bắc; Thập Ngũ bệnh cũ tái phát, ngày ngày nằm trên giường tĩnh dưỡng.
Về sau, tất cả những người ấy cũng lần lượt rời cõi thế.
Cố Lưu không biết mình có thực sự sống đến trăm tuổi không, trí nhớ đã mờ dần, bằng hữu đồng niên lần lượt khuất bóng, cung trong cung ngoài, cảnh vật đổi thay, người cũng thành xa lạ, toàn là những khuôn mặt trẻ không quen.
Người thân cận bên cạnh là một khuôn mặt mới, Cố Lưu phải nhìn hồi lâu mới nhận ra, chắc đây là đồ đệ do Thập Ngũ đào tạo, năm xưa từng là đám tiểu tử chen chúc ngoài cửa mà ngã nhào.
Giờ ai nấy đều đã trung niên.