11.
Hắn lặng lẽ nhìn ta, ánh mắt sâu lắng như hồ nước tĩnh, chẳng gợn sóng nào.
Ta kể cho hắn nghe, ta vốn tên là Tư Hương, quê quán ở Dương Châu, cha ta là chưởng quầy kiêm bếp trưởng của Nhuyệt Hương Lâu.
Phụ thân ta từng theo học danh trù miền Giang Nam, tinh thông các món ăn Hoài Dương.
Còn món khiến người đời nhắc đến nhiều nhất, sở trường tuyệt kỹ của cha ta, chính là yến tiệc cá nóc.
Từ các món nguội đến món nóng đều dùng cá nóc làm nguyên liệu, có cả Tây Thi nhũ Phật khiêu tường, Văn Tư cá nóc, sủi cảo cá nóc...
"Ta thích nhất là món Văn Tư cá nóc do cha làm. Nước dùng trong, thịt cá nóc ở lưng được thái thành sợi thật mảnh xếp dưới đáy bát sứ trắng, lần lượt phủ lên giá đỗ tươi và sợi giăm bông, điểm xuyết chút rau cần non xanh biếc của Thái Hồ, rồi cuối cùng rưới một lớp nước bột sánh nhẹ. Chỉ một món ấy, được cha làm ra đẹp đến mê người."
Thế tử chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên, ngược lại trên mặt còn lộ nét xót xa.
Ta nghẹn ngào:
"Lúc ăn, cá trôi tuột qua cổ họng, xuống dạ dày, đầu lưỡi ngập tràn vị tươi ngon mềm ngọt, là thứ mỹ vị nhất đời ta từng nếm."
Ta dừng lại một chút, rồi kể tiếp, năm ta tám tuổi, Đông Hưng Cư nhà họ Liễu định mở chi nhánh ở Dương Châu, chưởng quầy chính là Liễu nhị thiếu gia.
Khi đó, cha ta là đầu bếp số một Dương Châu, kiêm hội trưởng hội quán tửu lầu thành Dương Châu.
Liễu nhị thiếu gia theo lệ tới hỏi mua Nhuyệt Hương Lâu của nhà ta. Đó là tâm huyết nhiều năm của cha, nên ông dứt khoát từ chối.
Nhị thiếu gia cũng chẳng nổi giận, chỉ cười tủm tỉm để lại trọng lễ, rồi ung dung rời đi.
Năm ấy, Nhị thiếu gia mở tiệc ở Nhuyệt Hương Lâu, mời khắp danh lưu trong thành đến thưởng yến cá nóc do cha đích thân chế biến.
Nào ngờ hôm đó, bốn vị khách tử nạn.
Nha môn tới điều tra, quan khám nghiệm xác xong, phán rằng bốn người bị trúng độc cá nóc do không được làm sạch kỹ càng.
Cha ta vốn chưa từng lỡ tay, nay lại gánh bốn mạng người, cuối cùng phải bán sạch gia sản mới lo xong vụ kiện. Nhưng mẹ ta vì quá uất hận mà lâm bệnh qua đời, còn cha ta cũng chẳng chống nổi đả kích, đi theo mẹ chỉ sau đó không lâu.
Ngần ấy năm trôi qua, mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, trong lòng ta vẫn thấy như có một con dao sét gỉ lặp đi lặp lại cắt vào tim, đau đến tê tái.
Thế tử cau mày, tựa như muốn tới ôm ta.
Ta giơ tay ngăn hắn, vịn bàn ngồi xuống, chậm rãi kể tiếp:
"Nhà tan cửa nát, ta được thầy của cha cưu mang, học bếp hai năm, nhưng thầy tuổi già sức yếu, đến năm ta mười tuổi cũng bệnh nặng.
Trước lúc đi, sư tổ hỏi ta muốn làm gì, ta đáp muốn báo thù, người chỉ cười khổ lắc đầu, cuối cùng vẫn sắp xếp để ta vào Liễu gia."
Từ đó, ta đổi tên thành Hồng Đậu, thành một tiểu đầu bếp chuyên làm dược thiện trong tư trù Liễu gia.
Liễu nhị thiếu gia tình cờ ăn phải món dược thiện ta làm, từ đó không dứt ra được, đích thân chỉ điểm cho mang ta theo bên mình, mãi đến bốn năm trước.
Ta nhìn thế tử mỉm cười:
"Từ mười đến mười tám tuổi, ta luôn lén bỏ thuốc, suốt tám năm dài dằng dặc, cuối cùng cũng làm suy kiệt toàn bộ căn cơ của hắn.
Đến đêm tiệc rượu ôn tuyền hôm đó, ta hạ thêm thuốc nặng, thúc cho bệnh lâu năm của hắn phát tác."
Thế tử ngồi xổm xuống trước mặt, nắm chặt lấy hai tay ta.
Lúc ấy ta mới nhận ra mình đang run lên — không chỉ tay, mà cả người đều run không kiểm soát nổi.
Hắn nghẹn giọng:
"Hồng Đậu, đừng nói nữa."
"Không, ta muốn nói, đây là điều ta tự hào nhất trong đời."
Ta siết chặt nắm tay:
"Ta biết Nhị thiếu gia bệnh c.h.ế.c, phần lớn ta cũng sẽ bị liên lụy. Dù ta không hạ độc, dù ta làm việc rất kín kẽ, nhưng với những kẻ quyền thế như bọn họ, không có chứng cứ cũng có thể bịa ra chứng cứ, huống chi bản thân ta đã là kẻ bị tình nghi nặng nề.
Lúc mang canh giải rượu cho người, thật ra ta cũng chẳng thiết sống nữa.
Tỳ Bà từng bảo, trong sách đều nói chuyện mây mưa là lạc thú trần gian, thấy người chủ động đòi hỏi, ta nghĩ, dù sao cũng sắp c.h.ế.c, thôi thì trước lúc c.h.ế.c cũng nên thử một lần."
Ta cúi người, dùng trán chạm vào trán hắn, khẽ cười:
"Thế tử, Sách Anh, ta chưa từng hối hận về đêm đó.
Cảm ơn người đã cứu ta.
Cũng cảm ơn người, khi Liễu gia đến đòi người, đã che chở cho ta."
12.
Hắn bất chợt ngồi thẳng dậy, ôm chặt lấy ta, mạnh đến nỗi làm ta hơi đau, giọng run run:
"Ta sẽ vào điện cầu xin hoàng thượng cho lui hôn, ta không làm thế tử nữa, ta chỉ muốn lấy nàng thôi, Hồng Đậu, đừng rời xa ta."
Ta níu lấy cánh tay hắn, khẽ cười:
"Thế tử, ta kể cho người nghe những chuyện này không phải để cầu lấy sự thương hại, ta chỉ muốn nói, đừng xin lỗi về lần đầu chúng ta gặp nhau, cũng đừng mang nỗi áy náy trong lòng.
"Ta thực lòng cảm kích ông trời đã cho ta và người bốn năm duyên phận này.
"Người đừng lo lắng ta sau này sẽ không sống tốt, ta rất lợi hại, cũng rất thông minh."
"Nếu người thực sự lo, thì cho ta thêm chút bạc làm vốn đi."
Rõ ràng chỉ là lời đùa cợt, vậy mà trong lòng lại nhói lên từng cơn đau nhè nhẹ.
Cuối cùng, hắn cũng buông lỏng vòng tay, cúi đầu hôn ta.
Ta cảm thấy mặt mình lạnh lạnh, ướt ướt, mà ta đâu có khóc, vậy là Sách Anh đã khóc ư? Hắn cũng biết khóc sao...
Ta ôm lấy cổ hắn, cuồng nhiệt đáp lại.
Đêm ấy, hai ta quấn quýt không rời, đều biết tương lai sẽ dần xa nhau, vì thế càng muốn nắm thật chặt khoảnh khắc bên nhau như cát trôi qua kẽ tay, càng không dám buông lơi.
"Sách Anh, Sách Anh..."
Ta không ngừng gọi tên hắn, như muốn khắc sâu đêm nay, cùng tên hắn, vào tận đáy lòng.
Hắn cũng chẳng thấy phiền, chỉ dịu dàng đáp lại:
"Hồng Đậu, ta đây."
Hôm sau, chính tay hắn chải đầu cho ta, tiễn ta ra khỏi thành.
Hắn để Tỳ Bà theo cùng ta, còn tặng thêm hai vạn lượng ngân phiếu, cộng với số bạc ta tự mình tích cóp mấy năm nay, đủ để ta sống an ổn bất cứ nơi nào trên đời.
Tỳ Bà đã lên xe ngựa, đưa tay ra kéo ta, ta đặt chân lên bậc, ngoái đầu lại nhìn liền thấy hắn đứng đó, bất động như tượng.
Tim ta đột nhiên thắt lại, ta liền nhảy xuống xe, ba bước gộp thành hai, lao vào lòng hắn.
"Người phải sống thật tốt, ta cũng sẽ sống thật tốt." Ta thì thầm bên tai hắn.
"Được, tạm biệt." Giọng hắn ôn hòa đến lạ.
Ta cố gắng không để nước mắt rơi, cũng khẽ nói với hắn:
"Tạm biệt."
Tạm biệt – mà cũng là vĩnh biệt.
Trên xe ngựa xuôi Nam, ta nhào vào lòng Tỳ Bà, khóc nức nở, khóc đến khàn cả tiếng, khóc đến kiệt sức.
Nàng ôm chặt ta, vỗ về an ủi, bảo sẽ mãi mãi ở bên ta, đợi ổn định rồi nhất định sẽ tìm mai mối, để ta cưới một vị lang quân tuấn tú.
Nàng nói, ta nhiều tiền như thế, đến khi ấy những người muốn làm rể nhà ta có thể xếp từ Thọ Tây Hồ sang tận Tần Hoài., ai ai cũng tuấn tú như Phan An, tài hoa đầy mình.
Nàng vụng về an ủi ta mãi, cho đến khi ta rốt cuộc cũng bật cười trong nước mắt.
Tiếng xe ngựa lăn đều, sau mười năm rời xa, ta lại trở về quê cũ Dương Châu.
Liễu nhị thiếu gia từng hại sập Nhuyệt Hương Lâu của cha ta, giờ trên nền đất ấy Đông Hưng Cư dựng lên mà sống dở c.h.ế.c dở, lay lắt qua ngày.
Ta ở trà lâu đối diện quan sát mấy hôm, thấy vắng tanh vắng ngắt, khách khứa thưa thớt.
Nghe nói trước đây Đông Hưng Cư còn có kim chủ phía sau chống lưng nên chưa đến nỗi nào, về sau Nhị thiếu gia c.h.ế.c rồi, chỗ phát tài của hắn cũng mất chỗ dựa, càng thêm tàn tạ.
Ta tìm gặp chưởng quầy của Đông Hưng Cư, thẳng thắn nói muốn mua lại tiệm, giá cả sòng phẳng.
Chưởng quầy thương lượng một lúc rồi cũng đồng ý.
Thời nay, triều đình hai Thánh cùng trị nước, Hoàng hậu họ Thôi quản nội chính, luôn khuyến khích nữ học, nữ hộ.
Dù là nữ nhi chưa chồng, ta cũng có thể tự đứng tên mở hiệu, làm ăn buôn bán.
Năm ta hai mươi hai tuổi, mùa hạ rực rỡ, Nhuyệt Hương Lâu lại một lần nữa khai trương.
Pháo nổ vang trời, cờ rượu phấp phới, khách khứa tấp nập không ngớt, trong lòng ta thầm nói:
"Cha mẹ, hai người xem, Hương Hương đã trở về rồi."