11
Số người dòm ngó cái bụng của ta càng ngày càng nhiều.
Chuyện nhà Trần Nhị Cẩu gây náo loạn, ai nấy đều biết khoản tiền tuất đặc biệt này tới hai mươi lượng bạc, nên ai cũng mong trong bụng ta là con gái.
Như thế, họ có thể đến khuyên Trần thúc và thẩm cho nhận một đứa trẻ cùng họ vào làm con thừa tự, để kế thừa hai mươi lượng bạc ấy.
Cái bụng ta ngày càng lớn dần, ta cũng chẳng nói chắc mình mong con trai hay con gái.
Chỉ biết, trên gương mặt hai vị lão nhân kia, nụ cười ngày càng tươi rạng rỡ.
Ngày sinh, ta đau từ chiều đến tận tối, thẩm mời bà đỡ tới giúp.
Khi đứa nhỏ vừa chào đời, bà đỡ nhìn ta bằng ánh mắt ái ngại, không dám cười lớn, chỉ khẽ nói:
“Chúc mừng, chúc mừng, là bé gái, cũng coi như nhà thêm người, thêm phúc.”
Ta ngẩng nhìn Trần thúc, thẩm, họ không hề thất vọng, chỉ vui mừng ôm lấy đứa trẻ:
“Mặt nhỏ nhăn nheo, giống hệt như lúc thằng Thạch Đầu mới sinh, đã có người nối dõi rồi, nhà ta có hậu rồi.”
Thẩm bế đứa nhỏ hạ thấp xuống cho ta nhìn:
“Nhìn đi, là một bé gái khỏe mạnh. Thẩm bế nó đi nhé, con mau ăn bát cơm canh gà rồi ngủ một giấc cho lại sức, sinh nở vất vả lắm rồi.”
Ta nhìn đứa bé xấu xí, mềm mại, đang khóc oe oe kia, trong lòng bỗng sáng tỏ.
Ta muốn giữ nó, muốn nó làm con gái của mình, muốn nó lớn lên khỏe mạnh, an lành, muốn nó sống một đời tốt đẹp gấp trăm ngàn lần ta.
Doanh Chi từng nói, mong ta được sống một đời người bình thường.
Giờ thì ta mới thực sự bắt đầu nghĩ, thế nào là đời người bình thường.
Có lẽ, đời người bình thường chính là có cha mẹ hiền từ, lớn lên đến tuổi thì gả cho một người phu quân hiền hòa, rồi sinh vài đứa trẻ chạy nhảy khắp nhà.
Bây giờ, ta đã có con gái; nếu Trần Thạch Đầu còn sống, hẳn sẽ là người phu quân hiền lành.
Chỉ còn cha mẹ — tuy lúc nhỏ ta không có, nhưng hiện tại, ta đã có rồi.
Trần thúc, thẩm đều rất thương ta và con gái ta.
Những kẻ đến nói con gái không tính là nối dõi, muốn nhận con thừa tự đều bị họ đuổi đi sạch.
Trần thúc cười, nựng con gái ta:
“Cháu gái nhà ta — San Nương — mới xinh đẹp làm sao, đâu có thua kém đám con trai xấu xí của bọn họ. Sau này lớn lên, rước phu quân về ở rể, vẫn có thể giữ gìn hương hỏa cho nhà ta.”
Họ nói, ngày trước đặt tên con là Thạch Đầu, chỉ mong nó cứng cáp vững chãi như đá.
Nhưng đá thì chưa đủ chắc, vậy nên đặt tên cho con gái là San Nương — như một ngọn núi lớn, chắc chắn sẽ bình an đến cuối đời.
Ta dần trở thành một phụ nhân bình thường ở thôn Đào Lý, sáng làm chiều nghỉ, mỗi ngày đều có con gái San Nương bập bẹ gọi ta là “nương”, còn ta thì cũng gọi Trần thúc và thẩm là “cha mẹ”.
Trong nụ cười đẫm nước mắt của họ, ta đã có một mái ấm nhỏ, hưởng trọn sự bình dị và ấm áp của nhân gian.
Nghĩ lại, tám tháng ấy trong đời ta chỉ là một đoạn rất nhỏ, đã đến lúc để ác mộng ấy rời khỏi lòng mình rồi.
12
Năm San Nương lên hai tuổi, nhà bên cạnh chuyển đến một thư sinh góa vợ dẫn theo con gái.
Trẻ nhỏ đến tuổi cần bạn chơi, chẳng mấy chốc đã len lỏi sang sân nhà người ta.
Thư sinh ấy họ Trịnh, tên Việt, con gái là Trịnh Nguyệt Thiền, lớn hơn San Nương một tuổi, cũng đang độ nghịch ngợm. San Nương chui sang nhà họ, mà Nguyệt Thiền cũng chạy sang nhà ta.
Chui tới chui lui thành quen, hai nhà dần dần thân thiết.
Ta biết được, Trịnh Việt là tú tài, vốn dạy học trong thành, vì chạy chữa cho thê tử mà tán gia bại sản, thê tử vẫn không qua khỏi, mất cách đây một năm.
Chàng chẳng muốn ở mãi nơi gợi buồn, nên chọn đến thôn ta ở tạm.
Mở một lớp tư thục ngay đầu làng, trẻ con các làng lân cận muốn học chữ đều đến theo học.
Ban đầu ta chẳng nghĩ gì, dẫu cả hai đều là người mất bạn đời, chàng còn là tú tài, với người ngoài ta vẫn là trèo cao không tới.
Cho đến một hôm, ta thấy chàng cầm cây gậy nhỏ dạy Nguyệt Thiền và San Nương tập viết trong sân, chợt nhớ đến Doanh Chi — tiếc rằng năm xưa nàng chẳng kịp dạy ta đọc chữ.
Chợt nổi hứng, ta bước tới nói:
“Trịnh phu tử, ngài có ngại nhận thêm một học trò lớn tuổi như ta không?”
Chàng nhìn ta, ánh mắt có chút tán thưởng:
“Dương nương tử đã vất vả quán xuyến gia đình, còn không quên cầu học, làm thầy sao nỡ bỏ qua một học trò ham học? Từ nay, mỗi chiều ngươi dẫn San Nương sang đây, cùng nhau học với lũ nhỏ.”
San Nương mới hai tuổi, học hành gì cho cam, chẳng qua là lấy cớ để con bé cùng Nguyệt Thiền nô đùa ngoài sân, cũng tiện cho ta và Trịnh phu tử tránh điều tiếng.
Chàng nhất quyết không lấy học phí, để đáp lại, mỗi lúc chàng đi dạy, ta càng quan tâm, chăm sóc Nguyệt Thiền nhiều hơn.
Ta dạy trẻ chỉ mong nó hiểu chuyện, vui vẻ, bởi thế kiên nhẫn hơn các bà mẹ khác.
Hai đứa chơi nặn đất, ta giúp nhào nặn đất, chúng hỏi bao điều kỳ lạ, ta cũng tận tâm tìm lời mà đáp.
Có hôm trời tối một chút, Nguyệt Thiền lại nũng nịu đòi ngủ cùng San Nương, không chịu về, sà bên ta mà thủ thỉ:
“Dương di, người thật thơm quá, mẫu thân nào cũng thơm như thế này sao?”
Cô bé mở to đôi mắt, trong đó toàn là sự tò mò về mẹ, bởi mẹ nó đi quá sớm, nên nó rất ngưỡng mộ San Nương có mẹ bên cạnh.
Còn San Nương lại ngưỡng mộ nó, thường len lén hỏi ta:
“Nương ơi, cha con cũng giống Trịnh phu tử, dạy nhiều học trò lắm phải không?”
Không chỉ có hai đứa nhỏ, cả cha mẹ ta cũng quý mến Trịnh Việt.
Cha đã lớn tuổi, dù có ta giúp đỡ việc đồng áng cũng không nhẹ nhõm gì, ấy vậy mà Trịnh Việt, một người học chữ mà cũng không ngại xuống ruộng cày cấy.
Hai mùa lúa mì đã gặt, chàng cũng đã giúp nhà ta suốt hai vụ liền.
Mẹ nấu món ngon, dù không có phần ta thì cũng không quên gửi một bát cho Nguyệt Thiền.
Sự hòa hợp của người thường đều gói ghém trong những chuyện cơm áo gạo tiền hằng ngày như thế.
Năm San Nương lên năm, một hôm ta đang nấu ăn trong bếp, mẹ vừa chuyện trò vừa bảo:
“Thạch Đầu đi đã năm năm, mẹ Nguyệt Thiền cũng mất bốn năm rồi.
Các con đều còn trẻ, giữ đạo vậy cũng đã đủ. Trịnh gia không có trưởng bối, mẹ với cha con tự làm chủ, muốn hai nhà mình về chung một nhà, cùng nhau mà sống.”