14.
Ngày thứ ba, cả nhà Trình phủ cùng lên chùa Nam Sơn trai giới hoàn nguyện.
Trước kỳ thi mùa xuân, đại phu nhân từng cầu khấn trước Phật, giờ ca ca đỗ đạt, tất nhiên phải đến hoàn nguyện.
Trên đường, ta cùng đại phu nhân và Trình Hoàn Bích ngồi chung một xe ngựa, bà ta nắm tay Trình Hoàn Bích thân thiết chuyện trò, còn ta thì bị coi như không khí.
Chỉ khi sắp vào chùa, bà ta mới lạnh mặt dặn một câu:
“Ngươi xưa nay vô phép tắc, ta đã mắt nhắm mắt mở bỏ qua, không so đo với ngươi, nhưng Nam Sơn tự là chốn thanh tịnh cửa Phật, tốt nhất đừng để ta mất mặt, bằng không, ta tuyệt không tha!”
Ta mím môi mỉm cười:
“Vâng, mẫu thân.”
Bà ta ghét nghe ta gọi “mẫu thân”, nhưng lại chẳng bắt bẻ được, mặt càng thêm đen, sầm mặt bước vào chùa.
Nam Sơn tự nằm giữa núi non, cảnh sắc vắng lặng mà hương khói lại rất thịnh, trong chùa còn có nhiều khách như nhà ta tới hoàn nguyện.
Phụ thân và ca ca chỉ ở lại một ngày rồi phải về Kinh Đô lo công chuyện, hẹn mười ngày nữa sẽ quay lại đón bọn ta.
Đêm ngày thứ ba, ta trằn trọc không ngủ, một mình dạo quanh chùa, vô tình đi vào đại điện vắng người trông coi.
Tượng Phật trang nghiêm nghiêm nghị, khiến người nhìn không khỏi sinh kính ngưỡng.
Ta tiến lên thắp một nén hương, chắp tay thành kính mà khấn nguyện.
Một nguyện cầu cho hồn tiểu nương ta sớm siêu thoát, đầu thai vào nhà tốt.
Hai nguyện mong đời này ta lấy được người như ý, không phải chịu cảnh nhìn sắc mặt người khác mà sống.
Ba nguyện…
Ta mở mắt, ngẩng nhìn ánh mắt từ bi của Phật Tổ.
Ba nguyện: cầu cho Tạ Hoài Châu bình an suôn sẻ, đời này viên mãn.
Ta quỳ xuống dập đầu, vừa định đứng dậy thì đột nhiên nghe phía hậu viện vang lên tiếng thét chói tai của khách hành hương, liền sau đó là tiếng đánh nhau ầm ĩ.
Ta ngẩn người một thoáng, lập tức nhận ra đã có chuyện xảy ra!
Ta vội vã chạy khỏi đại điện, chỉ thấy bên ngoài một đám đạo tặc tay cầm đao kiếm xông vào chùa từ phía sau núi, các hòa thượng đều vác gậy gộc ra nghênh chiến, khách hành hương thì hoảng loạn xông ra từ các phòng, chạy tán loạn khắp nơi, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng.
Không ngờ nơi thanh tịnh cửa Phật như vậy mà cũng có ngày bị bọn đạo tặc xông vào cướp bóc.
Mấy người chạy vội qua trước mặt ta, ta cũng theo bản năng chạy theo, nhưng lại nghe thấy tiếng khóc nức nở.
Là mấy nữ hương khách đang bị bọn cướp lôi đi.
Ta do dự một thoáng, cuối cùng vẫn quay lại đại điện, vớ lấy cây trượng trừ tà bằng đồng xanh ở bên cạnh, lao tới cứu người.
Thuở nhỏ ta lớn lên ở chốn thị thành, vì tranh ăn mà không biết đã chịu bao nhiêu trận đòn, sớm đã rèn được sự nhanh nhẹn lanh lợi, ôm theo cây trượng nặng gần bốn mươi cân, cứ vung bừa cũng có thể đập c.h.ế.c được vài tên cướp.
Chỉ là tình hình nguy cấp, ta chỉ cứu được hai người. Cũng may có các tăng nhân ở phía trước chống đỡ, chúng ta mới trốn thoát được.
Dưới sự dẫn dắt của một chú tiểu, mọi người men theo đêm tối trốn xuống núi, ẩn vào một hang động sau thác nước.
Có mấy tên đạo tặc đuổi tới, nhưng không tìm thấy, phải bỏ đi.
Đại phu nhân không biết được ai cứu, cũng bị đẩy vào trốn cùng chúng ta.
Tóc tai bà rối bời, mặt mũi đầm đìa nước mắt, khóc đến lả đi, miệng chỉ lẩm bẩm:
“Hoàn Bích của ta bị bắt đi rồi, ta phải đi tìm Hoàn Bích!”
Ta đành bịt miệng bà lại, kẻo bà lại khóc to gọi bọn cướp tới.
Đêm đen như mực, trong chùa tiếng chém g.i.ế.c vẫn chưa dứt, từng đợt tiếng kêu thảm truyền đến chân núi, ngay cả tiếng nước thác đổ ầm ầm cũng không thể át được.
Mọi người đều ướt nhẹp, vừa lạnh vừa sợ, chen chúc lại với nhau, không ai dám thở mạnh.
Ngoài trừ chú tiểu dẫn đường, cả đám toàn là nữ tử, gặp cảnh hiểm nguy thế này, dù là ai cũng không tránh khỏi run rẩy lo sợ.
Đại phu nhân co rúm bên cạnh ta, cố gắng không khóc thành tiếng, tay nắm chặt lấy vạt áo của ta.
Ta âm thầm thở dài, không ngờ lúc nguy nan thế này, ta lại cùng đại phu nhân dựa vào nhau.
Không biết bao lâu, trên núi mới yên tĩnh trở lại, chú tiểu dẫn đường đi dò xét, quay về báo: bọn cướp đã vơ vét xong, kéo nhau vào sâu trong núi rồi.
Chúng ta chẳng dám quay về chùa vội, chỉ đành rời hang càng sớm càng tốt, đến thôn làng gần nhất tìm chỗ nương náu.
Mọi người đều tán thành.
Chỉ có đại phu nhân là khóc đến ngất lịm, không ngừng van xin ta:
“Chúng ta không thể đi được, Hoàn Bích bị bắt rồi, Hoàn Châu, chúng ta đi tìm nó được không? Nó có khi vẫn còn trong chùa, ngươi thân thủ tốt như vậy, đã cứu được người khác, thì cũng hãy cứu lấy tỷ tỷ ngươi đi!”
“Thưa mẫu thân, trong chùa còn có đạo tặc lưu lại hay không vẫn chưa biết, người muốn ta đi chịu c.h.ế.c sao?”
Ta hất bà ta ra, định đi theo những người khác.
Nhưng bà ta lại nhào tới, bám chặt lấy ta, quỳ xuống khóc lóc cầu xin:
“Hoàn Châu, ta xin ngươi, xin ngươi hãy cứu lấy Hoàn Bích!”
Bà khóc đến đứt từng khúc ruột, cái người xưa nay cao cao tại thượng, luôn chỉ tay sai khiến ta – chủ mẫu Trình gia – giờ đây đã chẳng còn chút dáng vẻ nào, chỉ còn lại dáng vẻ đáng thương như một con chó ướt sũng dưới mưa.
Chú tiểu đã dẫn mọi người men theo quan đạo đi mất, ai cũng không dám vì ta với đại phu nhân mà chậm trễ, chẳng mấy chốc trước hang chỉ còn lại hai người chúng ta.
Ta chưa bao giờ cùng bà ấy ở chung như thế này.
Ta nhìn lên núi, thấy bọn đạo tặc đã châm lửa đốt chùa, lửa cháy ngùn ngụt, khói đen cuồn cuộn như một con quái vật khổng lồ lặng lẽ nhìn ta chằm chằm.
Một lúc lâu, ta khẽ thở dài, nhìn về phía đại phu nhân:
“Mẫu thân, người xưa nay vẫn chê ta quê mùa, vô giáo dưỡng, chẳng lẽ chưa từng nghĩ sẽ có ngày phải quỳ xuống cầu xin ta đi cứu nữ nhi của mình sao?”
Bà ta vội vàng năn nỉ cứu Trình Hoàn Bích, cũng không thèm để ý ta đang châm chọc, chỉ nước mắt lã chã, giọng đầy bi ai:
“Là ta sai rồi, Hoàn Châu, ta đối với ngươi không tốt, c.h.ế.c cũng đáng! Nhưng Hoàn Bích là đứa trẻ ngoan, nó chưa từng nói xấu ngươi với ta lấy một lời!”
“Tiểu nương của ta cũng chưa từng nói xấu người một lời nào, nhưng người vẫn khiến bà ấy phải c.h.ế.c.”
Bà ta ngẩn ra, buông tay ta, như không thể tin nổi ta lại nói vậy.
“Thì ra ngươi vẫn luôn oán hận ta, bởi vì ngươi nghĩ ta đã hại c.h.ế.c tiểu nương của ngươi? Sao ngươi lại nghĩ là ta? Năm ấy ta chưa từng làm khó các ngươi!”
Ta cảm thấy nực cười:
“Chưa từng làm khó? Người ném chúng ta vào cái nhà dột nát, mặc kệ sống c.h.ế.c, không cho phụ thân ta đón về phủ, để mặc mẫu tử ta bị ức hiếp, để tiểu nương của ta c.h.ế.c trong cô độc, những gì người làm đều quên cả rồi sao?”
“Vậy ngươi còn muốn ta thế nào?”
Bà ta thẹn quá hóa giận, tuyệt vọng gào lên:
“Nàng ta là nha hoàn hồi môn của ta, là người ta tin cậy nhất, vậy mà lúc ta mang thai lại dám lên giường với phu quân ta. Ngươi muốn ta đối xử thế nào? Ngươi có biết ta đã bao lần muốn nàng ấy c.h.ế.c, chỉ cần bịa ra một cái tội, tống vào quan phủ là c.h.ế.c chắc, nhưng ta không làm vậy! Ta nghĩ tình chủ tớ, tha cho nàng ấy một con đường sống, lẽ nào thế còn chưa đủ nhân từ?”
Ta từng nghĩ, chí ít đại phu nhân phải biết mình tàn nhẫn thế nào.
Nào ngờ trong lòng bà ta, hóa ra bản thân lại là người nhân từ, còn ta thì thành kẻ không biết điều.
Ta thất vọng đến cực điểm, khẽ lắc đầu:
“Đại phu nhân, người rõ ràng biết tiểu nương của ta vốn nhát gan sợ phiền, trung thành tận tụy với người, sao có thể chủ động quyến rũ phụ thân ta chứ…”
Một người nữ tử yếu ớt như bà ấy, phụ thân ta muốn thì bà ấy có thể chống lại được sao? Rốt cuộc là ai có lỗi với ai, người đã từng nghĩ đến chưa?
“Người luôn chê ta vô giáo dưỡng, nói ta cứ chống đối người. Đúng là ta có oán hận người thật, nhưng ta đối đầu với người không phải vì ta, mà là vì ta thấy không đáng cho tiểu nương của ta.
Những năm ở tiểu viện, ngày nào bà ấy cũng nhắc đến người. Bà ấy nói, bà theo người từ năm sáu tuổi, người dạy bà đọc sách, dạy bà pha trà. Mùa xuân cùng nhau ra ngoại ô hái rau dại, bày trò làm gia đình. Mùa đông cùng ngồi đầu giường khâu vá. Bà luôn nhắc mãi, luôn tự trách mình có lỗi với người, rõ ràng bà mới là người chịu nhiều ủy khuất nhất, vậy mà ngày ngày vẫn chỉ mong người tha thứ cho bà.
Tiểu nương của ta là người tốt như thế, mà người lại chỉ xem bà như hồ ly tinh dụ dỗ phu quân, một lần cũng chẳng chịu gặp mặt, nửa câu cũng không cho bà biện bạch, càng không bao giờ đứng ra vì bà. Đại phu nhân, người xứng đáng với sự kính trọng của bà sao?”
Có lẽ những lời này cuối cùng cũng lay động được bà, khiến bà nhớ lại, đã từng, rất nhiều năm trước, bà và tiểu nương của ta từng là tỷ muội thân thiết nhất.
Đại phu nhân ngẩn người nhìn ta, toàn thân run rẩy:
“Ta… ta…”
Bà chẳng thể cãi lại nổi.
Một lát sau, thân mình bà như cát sụp, gục hẳn xuống đất.
“Không phải thế… không phải mà…”
Bà nghẹn ngào không thành tiếng, ôm mặt khóc rũ như một vũng bùn.
Ta nhìn bà, hít sâu một hơi, tự ép mình bình tĩnh lại, sau đó nhìn về phía chùa.
Cuối cùng ta vẫn nhặt lấy cây trượng trừ tà bên cạnh, đi về phía trên núi.
Có lẽ, Trình Hoàn Bích thật sự vẫn còn ở đó.
Chùa đã bốc cháy, nếu nàng còn mắc kẹt bên trong, chẳng phải sẽ bị thiêu sống hay sao?