9
Khi ta trở về phủ, Xuân Chi hớn hở chạy ra hỏi:
“Thế tử đã về chưa ạ? Lò thuốc bổ trên bếp đã được Xuân Chi canh hầm suốt cả đêm rồi. Xuân Chi có thể múc ra trước, đợi thế tử về thì để tiểu thư tự tay dâng lên, rồi nói… rồi nói là chính tay tiểu thư tự mình hầm đấy.”
Để lấy lòng Tạ Trầm Châu, Xuân Chi, Hạ Hà cùng vú già đã tốn biết bao tâm sức.
Tạ Trầm Châu từ nhỏ thân thể yếu ớt, uống thuốc nhiều quá mà tổn thương tỳ vị.
Bài thuốc bổ này là mẫu thân ta nhọc công tìm kiếm.
Canh bếp ngày này qua ngày khác, hoặc là vú già, hoặc là Xuân Chi trông nom.
Giữa hè nóng bức hay giữa đông giá lạnh, ngày ngày ngồi bên bếp lò thực chẳng dễ dàng gì.
Các nàng luôn nói:
“Chỉ cần tiểu thư sống yên ổn, chúng nô tỳ có vất vả chịu thiệt thòi cũng chẳng sao.
Muốn giữ được lòng nam nhân, trước phải giữ được cái dạ dày của hắn, thế tử đối tốt với tiểu thư, chúng nô tỳ làm gì cũng thấy xứng đáng.
Tiểu thư chỉ còn lại chúng ta, nếu không phải chúng ta lo liệu chu toàn, còn ai thật lòng nghĩ cho tiểu thư nữa đâu.”
Nhưng nồi thuốc bổ này, từ ngày Thẩm Oánh Oánh nhập phủ, Tạ Trầm Châu hầu như chẳng còn quay lại dùng nữa.
Thấy vết bỏng trên tay Xuân Chi còn giấu trong tay áo, ta càng chua xót không đành, vành mắt đỏ hoe, từng lời từng chữ đều nặng nề:
“Cái lò nấu thuốc bổ này, dập đi thôi.”
Xuân Chi còn định nói gì, đã bị vú già lắc đầu ngăn lại:
“Tiểu thư nói sao, thì làm vậy đi.”
Ta bước vào nhà, trên bàn tròn vẫn đặt chiếc áo choàng còn dang dở.
Đó là vú già tận tay trông nom, dạy ta từng mũi kim từng sợi chỉ mà ta may cho Tạ Trầm Châu.
Tháng sau là sinh thần của hắn, đây là món lễ vật ta dốc hết tâm tư cùng sức lực chuẩn bị cho hắn.
Ngón tay bị kim chích không biết bao nhiêu lần, đến giờ vẫn còn âm ỉ đau.
Ta chợt cảm thấy, mọi thứ đều không còn đáng nữa, bèn thở dài một hơi:
“Hạ Hà, mang đi đốt hết đi.”
Hạ Hà vốn giỏi nhìn ý đoán sắc, thấy ta vừa về đã mặt không còn chút máu, liền chẳng hỏi thêm gì.
Lặng lẽ ôm áo choàng đi, một chậu lửa đã thiêu sạch.
Ngay cả bộ bàn cờ bạch ngọc Tạ Trầm Châu từng tặng, vú già cũng âm thầm thu dọn, ném vào góc kho lạnh lẽo.
Ngay cả cây hợp hoan ngoài cửa sổ, mang ý nghĩa châm chọc, cũng bị vú già viện cớ “đã mục ruỗng” mà cho người đào bỏ, vứt khỏi phủ.
Chủ tớ ba người chúng ta, dùng sự tuyệt tình buồn cười ấy, dứt khoát đoạn tuyệt với những ngày thơ dại ngây ngô đã qua.
10
Tạ Trầm Châu trở về phủ thì ta đã nghỉ ngơi.
Đến vú già nay cũng chẳng thể tự dối mình được nữa, đứng chặn trước cửa, lạnh giọng nói: “Tiểu thư đã ngủ rồi, thế tử có việc thì để hôm khác hãy tới.”
Nhưng sáng sớm hôm sau, ta liền tiến cung.
Cảnh Dương chỉ còn hơn một tháng nữa là phải viễn giá.
Từ nay trời nam biển bắc, người thân duy nhất còn lại của ta cũng khó gặp lại nhau.
Nàng khẩn cầu Thái hậu nương nương cho ta vào cung gặp mặt.
Khi xuất phủ, qua rặng long não rợp bóng xanh tươi,
Ta nghe thấy Thẩm Oánh Oánh nũng nịu van nài:
“Biểu ca, muội cầu xin huynh, đi cưỡi ngựa cùng muội một lần thôi được không? Huynh cả ngày ở bên tỷ ấy, chẳng thấy nhàm sao? Cả viện toàn mùi thuốc, chỉ cần ngửi thôi muội cũng muốn nôn rồi.”
Tạ Trầm Châu dịu giọng quở trách:
“Đừng nói bậy, đó là thuốc bổ A Tự hầm cho ta. Dù khó uống, nhưng cũng là nàng ấy hết lòng vì ta.”
“Oánh Oánh, sau này đừng làm loạn, đừng quấn lấy ta nữa.”
“Chuyện hôm qua, A Tự giận dỗi không ít đâu.”
Thẩm Oánh Oánh vừa dụi mắt vừa lè lưỡi:
“Ù la ù la, biểu ca thật chẳng ra gì, thân là nam nhi bảy thước lại sợ thê tử đến nỗi không dám cùng ta cưỡi ngựa.”
Tạ Trầm Châu bị nàng ta chọc cười, liền kéo tay Thẩm Oánh Oánh lại, vừa cười vừa nói:
“Xấu c.h.ế.c đi được, cẩn thận không ai thèm rước!”
Thẩm Oánh Oánh chu môi dỗi:
“Nếu không ai cưới thì để biểu ca nuôi muội cả đời, dù sao muội cũng ăn uống chẳng tốn kém bao nhiêu.”
Tạ Trầm Châu giãn mày, nở nụ cười rạng rỡ:
“Đồ tiểu quỷ ranh mãnh, chỉ giỏi làm loạn thôi.”
“Thôi được, A Tự tính tình mềm yếu, ta chỉ cần nhẫn nại dỗ dành là đâu lại vào đấy. Hôm nay vì tiểu quỷ ngươi mà ta đi cưỡi ngựa cùng, được chưa.”
Bọn họ ríu rít chạy về phía sau viện dắt ngựa, còn ta và họ, cách nhau cả biển cây xanh um tùm, lặng lẽ lướt qua nhau.
Ngoài cổng trước, xe ngựa đón ta đã chờ sẵn.
Ta vào cung, là hơn một tháng trời.
Trong quãng thời gian ấy, Tạ Trầm Châu từng đến đón ta hai lần.
Lần nào cũng bị bà vú của Cảnh Dương thẳng thừng đuổi về.
Có lần trời gió lớn, hắn ôm áo choàng của ta tới xin gặp.
Bà vú không nể mặt mà đáp:
“Chẳng lẽ thế tử cho rằng một Từ Ninh cung rộng lớn lại không sắm nổi áo rét cho chủ nhân sao?”
“Hơn nữa, chỉ một chiếc áo choàng thôi, sao qua nổi cả mùa đông dài lạnh lẽo. Không bằng để cho biểu muội của ngươi thì hơn, nhà mẹ đẻ nàng ấy núi non cách trở, không kịp gửi áo rét sang, lại phải nhờ Hầu phủ quan tâm cho ấm cả đời mới được an yên.”
Những lời này bà vú cố ý nói to cho ta cùng Cảnh Dương nghe, hai chúng ta chui trong chăn cười đến cong cả lưng.
Cho đến ngày Cảnh Dương xuất giá, ta cố nén nước mắt, ân cần dặn dò nàng đủ điều, như khi mẫu thân tiễn ta xuất giá năm nào.
Những lời sau cùng, ta chẳng khuyên nàng phải rộng lượng, phải làm tốt vai trò chủ mẫu một phủ,
Chỉ nắm tay nàng, tha thiết khẩn cầu:
“Cứ sống là chính mình, suốt đời phải vui vẻ.”
“Hạnh phúc viên mãn, chẳng ai thay ai mà có được. Ngươi vui là được, hạnh phúc của ta, coi như gác lại.”
Tạ Trầm Châu đứng ngoài cửa, nghe hết từng lời.
Ánh mắt hắn u ám, mặt mày tái nhợt, định đợi ta về phủ thì bàn chuyện.
Nhưng Cảnh Dương vừa đi, Thái hậu đã khóc ngất.
Ta từng hứa với Cảnh Dương, sẽ thay nàng vào cung bầu bạn bên Thái hậu, tất nhiên không đắn đo ở lại Từ Ninh cung chăm sóc.
Đợi đến khi Thái hậu tỉnh lại, người nhất quyết muốn tới Hộ Quốc Tự ăn chay cầu phúc cho Cảnh Dương, chúc nàng một đời bình an vô ưu.
Ta vì tình thương chân thành của bậc trưởng bối đã mất đi từ lâu mà không khỏi xúc động.
“Thái hậu nương nương, thần nữ có thể theo hầu người đến Hộ Quốc Tự được không?”
Ta dùng từ “thần nữ” chứ không phải “thần phụ”.
Người hiểu, người đều hiểu cả.
Nắm chặt lấy tay ta, Thái hậu không ngừng gật đầu:
“Tốt, ngươi theo ai gia cùng đi.”