Ta còn đang nghĩ xem sau này phải xoay tiền từ đâu, đã cảm nhận được ánh mắt kia lại dừng trên mặt mình.
Ánh nhìn ấy vẫn sâu thẳm, khó đoán như mọi khi, là thứ trầm lắng mà ta mãi không thể nào nhìn thấu.
Ta nghi hoặc hỏi:
“Thân vương điện hạ?”
Hắn nói:
“Bổn vương không có ý đó, ngươi không cần miễn cưỡng.”
Ta đáp:
“Ta chẳng thấy miễn cưỡng chút nào, đây đều là tâm ý thật lòng.”
Hắn nhìn ta hồi lâu, bỗng bật cười thành tiếng.
Không phải là kiểu cười tinh quái hay ẩn chứa hàm ý khó lường, mà là một nụ cười sảng khoái, chân thành.
Hắn nói:
“Nữ trung hào kiệt, cũng chỉ đến thế này mà thôi.”
Ta mím môi cười đáp, chỉ cảm thấy bản thân chưa xứng với hai chữ “nữ trung hào kiệt” ấy.
Dù sao, ân tình năm xưa cũng đã báo đáp xong rồi.
Những năm tháng miệt mài đọc sách thánh hiền ở phủ Vũ An hầu, rốt cuộc cũng không uổng phí.
Giờ đây ta mới nhận ra, ký ức về phủ Vũ An hầu không phải đều là đau khổ không thể chịu nổi.
Những kỷ niệm về Tạ Chỉ Hành, cũng chẳng phải toàn là chua xót.
Khi ấy, hắn cầm quyển “Luận Ngữ” đọc:
“Quân tử hiểu đạo nghĩa, tiểu nhân chỉ biết lợi lộc.”
Ta vừa mài mực vừa hỏi:
“Chữ ‘nghĩa’ ấy bao hàm những gì?”
Hắn đáp:
“Đại nghĩa của bậc quân tử, bao gồm đạo nghĩa, chính nghĩa, đại nghĩa quốc gia, v.v... Làm người quân tử, phải lấy quốc làm trọng, mình làm nhẹ; lấy đại nghĩa quốc gia làm trọng, còn lợi nhỏ của bản thân chỉ là thứ yếu…”
Khi đó hắn giảng giải hào hứng, ta cũng chăm chú lắng nghe.
Không ngờ, những điều hắn dạy ta bảy năm trước, đến hôm nay lại có thể ứng vào đời thực.
Nay nghĩ đến hắn, ta cũng đã có thể bình thản.
Thì ra, từ lúc nào không hay, ta đã thực sự buông được người ấy rồi.
18
Sau khi kiểm xong lương thảo, ta đến cáo biệt Thân vương.
Nào ngờ trong trướng còn có một vị tướng trẻ tuổi, dáng vẻ phong lưu.
Thân vương giới thiệu:
“Hắn là Vương Khuê, thế tử phủ Tấn Quốc công, nay giữ chức Tả tướng quân trong quân doanh.”
Ta hành lễ, thấy hình như họ đang bàn việc chính, chỉ vì ta đến mà bị gián đoạn.
Thấy vậy, ta định nói ngắn gọn cho khỏi phiền.
Vương Khuê lại bỗng đứng dậy, vòng tay sau lưng, đi quanh ta hai vòng, nói:
“Ngươi chính là chủ nhân tiệm lương thực cung cấp lương thảo không lấy một đồng bạc? Sao lại là một cô nương?”
Ta thầm nghĩ, là cô nương thì đã làm sao?
Liền cúi đầu đáp:
“Phải.”
Hắn nói:
“Ta thấy ngươi trông quen lắm, chẳng lẽ chúng ta từng gặp ở đâu?”
Ta ngẩng lên đáp:
“Không.”
Hắn lại nói:
“Sao ngươi nói chuyện cứ mỗi lần chỉ được một, hai chữ, không thể nói nhiều thêm chút à?”
Ta đáp:
“Có thể.”
Hắn trừng mắt định nói gì nữa, lại bị Thân vương cắt ngang, đuổi hắn ra ngoài.
Ta nhìn bóng lưng khó hiểu của hắn, trong lòng cũng thấy ngạc nhiên.
Như vậy có ổn không? Đang bàn chính sự, lẽ ra nên ra ngoài là ta mới phải.
Thân vương lại nói:
“Không sao, chính sự đã bàn xong, tên tiểu tử kia cứ bám riết ở đây không chịu đi, may có ngươi tới kịp lúc.”
Ta nghĩ một lát, rồi nói:
“Dân nữ tới là để cáo biệt điện hạ.”
Hắn trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:
“Giờ mọi chuyện còn chưa yên ổn, nơi này thật không nên ở lại lâu.”
Ta nghe lời ấy dường như còn có ý khác, ngẫm nghĩ rồi do dự nói:
“Không phải là dân nữ không muốn lưu lại thêm vài ngày, chỉ là công việc ở kinh thành bề bộn, thật sự không thể không về.”
Nói xong, trên mặt hắn lại nở một nụ cười, bảo:
“Được, vậy mai ta tiễn ngươi xuất thành.”
Ta không hiểu sao tâm tình hắn lại bỗng nhiên tốt như thế, vội vàng đáp:
“Không cần đâu, nào dám làm phiền vương gia, Trương phó tướng đã hẹn với dân nữ, ngày mai sẽ đưa ta ra khỏi thành rồi.”
Nhưng không ngờ, sáng hôm sau người đến lại là Thân vương.
Hắn nói, Trương phó tướng vừa nhận lệnh đi tuần tra, trời chưa sáng đã rời thành.
Ta nghĩ một lát, liền hỏi:
“Lệnh tuần tra đó là ai hạ?”
Hắn khẽ ho một tiếng, rồi giục ngựa đi trước.
Ta nhìn theo bóng lưng có phần gượng gạo phía trước, chợt cảm thấy đã hiểu ra điều gì.
Ta để lão Viên đi cùng ở lại lo liệu việc bàn giao hai chuyến lương thảo sau, còn mình thì rẽ đường sang phương Nam một chuyến, xoay sở bạc để ứng phó.
Lên đường tới Tây Cương thì hãy còn đầu xuân, khi quay về kinh thành đã là cuối hạ.
Vừa vào thành không bao lâu, đã thấy Khinh Nhi sớm nghe tin mà đứng đợi ta từ trước.
Nàng thấy ta, liền bước nhanh tới trước, nói:
“Bà chủ, người rốt cuộc cũng về rồi, có quý nhân chờ đợi đã lâu.”
Quý nhân?
19
Ta nghĩ lại quanh mình xem còn ai có thể gọi là “quý nhân”, thế nào cũng không ngờ được, người chờ ta đã lâu ấy lại là Chương phu nhân — người từng có duyên gặp mặt đôi lần ở phủ Vũ An hầu năm xưa.
Vừa gặp ta, bà liền chạy tới nắm lấy tay ta, nước mắt giàn giụa, mừng mừng tủi tủi:
“Chúng ta tìm con bao lâu rồi, không ngờ lại là người ngay trước mắt mà chẳng nhận ra. Thiền nhi, con để chúng ta khổ sở tìm kiếm biết chừng nào.”
Phía sau bà là một nam tử trung niên mặc trường bào màu xanh sẫm, hai mắt hoe đỏ nhìn ta.
Ông bảo mình là phụ thân ruột của ta, còn Chương phu nhân trước mặt là cữu mẫu của ta.
Bọn họ dẫn ta về phủ Tấn Quốc công, gặp một phụ nhân lâu năm bệnh tật nằm liệt giường.
Người ấy có bảy, tám phần giống ta, nhất là bên khóe mắt cũng có nốt ruồi lệ nhỏ, vị trí gần như giống hệt.
Thì ra, năm đó Tấn Quốc công đi chinh chiến biên quan, Quốc công phu nhân mang theo một đôi con thơ còn quấn tã về kinh dự đại thọ lục tuần của lão Quốc công, giữa đường chẳng may gặp phải thích khách truy sát.
Quốc công phu nhân vì bảo vệ hai con, trên đường chạy trốn đành ghé qua một thôn, chia hai con gửi gắm lại cho hai nhà dân làng, để lại chút bạc cùng một khối ngọc làm tín vật, phòng khi chẳng may mình gặp nạn thì Quốc công còn dựa vào tín vật mà tìm lại hài tử.
May mà sau đó bà được cứu sống, khi tới thôn tìm con thì chỉ tìm được nhi tử, nhà được gửi gắm nữ nhi thì đã biến mất không tăm tích.
Quốc công phu nhân đau đớn ân hận, mang bệnh trong lòng, thân thể yếu ớt, nằm liệt giường nhiều năm.
Nghe đại khái chuyện xong, ta vẫn mơ hồ:
“Vậy sao các người chắc chắn ta là đứa bé gái năm đó?”
Tấn Quốc công nói, ít lâu trước nhận được thư từ Tây Cương gửi về.
Thì ra Vương Khuê sau khi gặp ta trong quân doanh thì lấy làm nghi, bèn thử truyền tin về kinh thành, kể chuyện dung mạo ta rất giống Quốc công phu nhân.
Tấn Quốc công giật mình, lập tức cho người điều tra, mới lần ra được sự thật năm xưa.
Ông lấy ra một khối ngọc dương chi, bảo:
“Đây là tín vật năm ấy mẫu thân con để lại, lại bị phu thê Ôn Chiêu mang đi cầm cố! Năm đó bọn họ lấy bạc từ việc bán ngọc, vội vàng vào kinh, đút lót tổng quản phủ Vũ An hầu, mới tranh được chức trang chủ.
“Đáng hận thay, họ đem tín vật của con ta đi đổi lấy phú quý cho bản thân, thế mà còn nỡ đối xử tệ bạc với con, lại còn đưa con đi làm đồng dưỡng tức! Tiểu tử Tạ gia lại là hạng bệnh tật yếu đuối ấy, sao có thể xứng với con? Lại khiến chúng ta phải xa cách m.á.u mủ suốt mười bảy năm trời, Ôn Chiêu đúng là lòng lang dạ sói!”
20
Ôm nhau khóc một hồi, ta lau nước mắt, kể sơ qua tình cảnh hiện tại của mình.
Nghĩ chắc bọn họ cũng đã tra rõ đại khái mọi chuyện xảy ra với ta những năm qua, nên ta cũng chẳng cần nói nhiều.
Sau khi biết ta làm ăn buôn bán, bọn họ chỉ cảm thấy đau lòng, cho rằng ta chịu ấm ức lớn mới phải ra ngoài vất vả lăn lộn.
Nghĩ lại, thuở ban đầu quả cũng có chút tủi thân, song thật ra cũng chẳng đến nỗi nào.
Ta chỉ đáp rằng mình sống rất tốt, còn có ý định tiếp tục buôn bán.
Mới nhận lại nữ nhi, bọn họ đương nhiên cái gì cũng chiều theo ý ta.
Cứ như vậy, ta nhận lại thân sinh phụ mẫu, một bước hóa thành đích nữ duy nhất của phủ Tấn Quốc công – tên là Vương Thiền.
Chẳng bao lâu, kinh thành đã râm ran tin tức: nữ nhi Tấn Quốc công trở về đoàn tụ.
Năm xưa sau khi ta mất tích, phu thê Tấn Quốc công vẫn một mực tin rằng sẽ có ngày tìm lại được ta, cho nên luôn nói với ngoài rằng ta đang ở quê dưỡng bệnh.
Nay nói ta “bệnh khỏi trở về”, cũng là hợp lẽ.
Dưới ánh mắt tha thiết mong mỏi của phụ mẫu và cữu mẫu, ta đổi lời xưng hô, gọi một tiếng:
“Phụ thân, mẫu thân, cữu mẫu.”
Ba người lại một phen lau nước mắt, nghẹn ngào không thôi.
Ta vẫn tiếp tục việc buôn bán như cũ, cuộc sống dường như chẳng vì thay đổi thân phận mà khác đi là bao.