12
Trên người ôm theo một trăm lượng bạc, trong lòng ta bỗng nảy ra một ý nghĩ.
Lúc trước phu nhân đón ta về phủ Vũ An hầu, đã sớm trả lại khế ước bán thân cho ta, còn lên nha môn xóa tên khỏi sổ nô tịch, cho nên hiện tại ta đã là lương dân.
Đã là lương dân, thì có thể mở cửa hàng buôn bán làm ăn.
Từ đó, ta không đến chùa Trấn Quốc nữa, mà ngày ngày đi dạo quanh phố Đông, phố Tây, cuối cùng cũng thuê được một căn tiệm nhỏ ở Đông phố, bắt đầu làm nghề bán rượu nếp.
Ta rất tự tin vào tay nghề của mình.
Bởi lẽ, khi xưa ta để tâm với Tạ Chỉ Hành bao nhiêu, thì công sức ta bỏ ra cho việc làm rượu nếp cũng nhiều bấy nhiêu.
Ngày quán nhỏ khai trương, ta mang một vò rượu nếp lớn đến tặng cho tiệm ca múa ở bên đối diện.
Chu ma ma ở tiệm ca múa ngắm ta hồi lâu rồi cười nói:
“Tiểu cô nương đi buôn bán quả thật không dễ dàng gì, vò rượu này ma ma nhận lấy. Nếu các cô nương trong tiệm thích, chắc chắn sẽ ghé quán con mua thêm.”
Chu ma ma tuy được gọi là “ma ma”, song xem ra chỉ mới độ hai mươi mấy tuổi, dung mạo kiều diễm, nụ cười vừa rực rỡ vừa sắc sảo, khi nhìn ta ánh mắt cũng đầy sáng rỡ.
Ta vội vã cảm tạ liên hồi.
Từ đó về sau, thật sự có không ít cô nương trong tiệm ca múa sai nha hoàn tới quán ta mua rượu nếp.
Dần dần, tiếng tăm của quán rượu nếp nhỏ của ta cũng lan xa, càng ngày càng nhiều người nghe danh tìm đến, những khi đông khách, ngoài cửa quán còn phải xếp thành hàng dài.
Không lâu trước đây, Khinh Nhi đến tuổi thành thân.
Nàng không muốn bị gả bừa, ta bèn tới nhờ phu nhân Vũ An hầu giúp đỡ, xin chuộc thân cho nàng.
Nàng cảm kích không thôi, mỗi ngày đều vui vẻ bận rộn trong quán.
Ba tháng sau, bà chủ bán đậu phụ bên cạnh là Khấu đại nương muốn về quê theo nhi tử, ta cắn răng mua luôn cả quán của bà ấy, lại thuê thêm hai người, mở ra cửa hàng chi nhánh đầu tiên.
Những ngày ấy, ta sống thật đủ đầy, cảm giác chưa từng có từ trước đến nay.
Hoàn toàn khác với những năm tháng từng quanh quẩn bên Tạ Chỉ Hành.
Sau này, ta lại nhận được đơn đặt hàng rượu nếp của Túy Tiên Lâu, bắt đầu cung cấp rượu cho họ.
Khi ấy ta mới biết, quản sự của Túy Tiên Lâu hóa ra cũng là nữ nhân, gọi là Trinh nương.
Tính tình nàng hào sảng, hai chúng ta rất hợp ý nhau.
Nhờ tiếp xúc với Trinh nương, ta lại dần có thêm mối làm ăn với các tửu lâu, quán cơm khác.
Lâu dần, ta bao trọn luôn nguồn cung rượu nếp cho bọn họ, buôn bán càng lúc càng phát đạt, chẳng bao lâu đã bù đắp được tiền đầu tư mở chi nhánh, thậm chí còn dư ra một khoản bạc lớn mà ta chưa từng nghĩ tới.
Trong lòng ta tràn ngập cảm kích, thầm nghĩ đây là ông trời mở cho ta một cánh cửa.
Cửa chính bị bịt kín, nhưng hóa ra, cửa sổ vẫn còn lối thoát khí.
Thế nhưng, cũng có những cánh cửa sổ trong phòng, lại vĩnh viễn chẳng thể nào thoáng gió.
13
Đến Tết, mang theo một tia hy vọng, ta mua ít lễ vật trở về nhà một chuyến.
Vừa đi tới ngoài sân đã nghe tiếng đại ca vọng ra:
“Nương, muội muội có về ăn Tết không?”
Nương nói:
“Nhắc tới cái đứa sao chổi ấy làm gì, phụ thân ngươi đã dò hỏi rõ rồi, thế tử phủ Vũ An hầu vốn không có ý muốn lấy nó, giờ nó ở phủ người ta cũng chỉ là một con nha hoàn hầu hạ mà thôi. Đúng là chẳng nên thân, đi bao nhiêu năm mà ngay cả một nam nhân cũng không giữ nổi.”
Đại ca nói:
“Thế thì hay, phòng của muội muội vừa hay Thụy Linh thích, muốn dùng để để quần áo đấy.”
Nương đáp:
“Thụy Linh muốn thì cứ để cho nó dùng, nó bây giờ đang mang thai, con phải chiều chuộng nó hết mực, chớ để nó động thai khí, nghe chưa?”
Lúc ấy nhị đệ lên tiếng:
“Nhưng mà tỷ tỷ về thì ở đâu? Hay là cho tỷ ấy ở tạm nhà kho đi, dù sao cũng chỉ là nha hoàn hầu hạ người ta thôi.”
Nương lại nói:
“Con nhắc ta mới nhớ, không được để nó quay về, đến nhà kho cũng không được! Hồi xưa nó được phủ Vũ An hầu đón đi làm đồng dưỡng tức, chuyện ấy cả làng đều biết, giờ phủ người ta không nhận nó nữa, nó mà về thì chẳng phải khiến nhà mình mất mặt hay sao?
Vả lại phụ thân con cũng nói rồi, muốn đoạn tuyệt quan hệ phụ tử với nó. Không được, sắp Tết rồi, phải ngăn cho bằng được, không để con bé ấy về đây gây xui xẻo. Ta phải giục phụ thân con sớm xử lý chuyện này cho xong mới được.”
Ta thất hồn lạc phách rời đi, tiện tay ném luôn quà Tết vào bờ ruộng ven đường.
Giữa đường, trời bỗng đổ tuyết lớn, ta lại không mang theo ô, đành đội gió tuyết mà đi.
Không biết đã đi bao lâu, phía trước bỗng vang lên tiếng vó ngựa dồn dập như sấm, chẳng khác nào đại quân hành quân.
Chỉ thấy trong màn tuyết mù mịt, một đội quân hộ tống một nam tử khoác áo choàng lông hạc màu đen, cưỡi ngựa tiến lại gần.
Ta giật mình tỉnh táo, vội vã lách sang một bên nhường đường.
Không ngờ lùi vội quá, tự vấp chân ngã sấp xuống đất.
Ta còn đang loay hoay muốn đứng dậy, đoàn người kia đã dừng lại ngay khi đi ngang qua ta.
Bất giác ta ngẩng đầu nhìn lên, liền bắt gặp một khuôn mặt quen quen.
Chính là vị vương gia hôm nọ gặp ở Tàng Thư Các.
Không hiểu sao mỗi lần gặp người này, ta đều bị ngã thế nhỉ?
Ánh mắt hắn vẫn sâu thẳm khó dò, một tay ghì cương ngựa, nghiêng đầu nhìn ta, giọng mang theo chút sốt ruột:
“Thời tiết thế này, cô nương một mình ra ngoài, ở đây làm gì?”
14
Về đến phủ Vũ An hầu, ta lại tình cờ chạm mặt Tạ Chỉ Hành.
Chàng đứng trước cửa phòng ta, tựa như đã đợi từ lâu.
Thấy ta khoác một chiếc áo choàng lông hạc trên người, chàng hỏi:
“Đó là gì vậy?”
Ta cúi đầu nhìn áo, liền tháo xuống, vào phòng cất kỹ.
Hôm ấy, vị vương gia kia hỏi ta câu ấy, ta nhất thời không biết trả lời thế nào, cứ ấp úng mãi.
Dường như hắn có việc gấp phải đi, nên tiện tay cởi chiếc áo choàng trên người, ném qua cho ta rồi lên ngựa rời đi.
Ta cầm lấy áo choàng vẫn còn vương hơi ấm của hắn, sững sờ một hồi mới chầm chậm quấn lên mình.
Dọc đường về, dù vẫn là gió tuyết lạnh căm, nhưng ta lại thấy ấm áp hơn nhiều, cả trong lòng cũng không lạnh lẽo như trước nữa.
Tạ Chỉ Hành vẫn đứng đó, lưng quay về phía ánh sáng, ta không nhìn rõ sắc mặt chàng, chỉ cảm thấy dường như tâm trạng chàng chẳng mấy vui vẻ.
Ta hỏi chàng có chuyện gì vậy.
Chàng liếc qua chiếc áo choàng, lại hỏi tại sao trên người ta lại có y phục của nam nhân, có phải xảy ra chuyện gì hay không.
Ta nhớ lại những lời vừa nghe ở nhà, chỉ gượng gạo đáp một tiếng:
“Không có chuyện gì.”
Không biết chàng nghĩ đến điều gì, sắc mặt càng thêm khó coi, xoay người rời đi.
Chẳng bao lâu sau, ta thật sự nhận được văn thư phụ thân muốn đoạn tuyệt quan hệ phụ tử với ta. Nhìn nét chữ ấy, vẫn là do phu tử duy nhất trong làng viết.
Ta lau đi giọt lệ nơi khóe mắt, vứt lá thư sang một bên, giả vờ như chẳng có gì, tiếp tục bận rộn với công việc.
Từ hôm đó, ta không còn gặp lại Tạ Chỉ Hành nữa.
Mãi đến sau khi xuân về, chàng mới gõ cửa phòng ta.
Lúc ấy đêm đã khuya, ta vẫn còn ngồi trong phòng xem sổ sách, vừa mở cửa thấy chàng liền hỏi:
“Thế tử đêm hôm khuya khoắt đến đây, chẳng hay có chuyện gì quan trọng?”
Chàng nhìn ta, đáp:
“Không có chuyện gì thì không thể tới tìm nàng sao?”
Ta thấy chàng hôm nay thật lạ, bèn hỏi:
“Hôm nay thế tử làm sao vậy, gặp phải chuyện gì rồi sao?”
Dường như trên mặt chàng thoáng qua nét u sầu, nói:
“A Noãn quên rồi sao, sắp đến khoa thi mùa xuân rồi, nàng không có gì muốn nói với ta sao?”
Ta thầm nhủ, chắc mình nhìn nhầm rồi, với tài năng của chàng, đỗ đạt là chuyện sớm muộn, như vậy càng dễ lấy được người trong lòng về làm thê tử, có gì mà phải buồn?
Chàng đã vì người mình yêu mà cố gắng, ta còn có thể nói gì nữa?
Nghĩ vậy, ta vẫn mỉm cười nói:
“Vậy chúc thế tử khoa cử đỗ đạt, sớm ngày như ý, mau đến cầu thân với Triệu cô nương.”
Còn ta, nhất định sẽ dọn ra khỏi phủ trước khi họ thành thân.