8.
Đi qua mấy lượt hành lang quanh co, cuối cùng cũng tới chính đường của huyện quan.
Vị huyện lệnh ấy nghiêng người tựa hờ trên ghế, nghe thấy tiếng động mới uể oải ngẩng đầu.
Song khuôn mặt bôi đầy chì trắng ấy, suýt nữa dọa người ta hồn vía lên mây.
“Nghe nói các ngươi có việc cần bẩm báo?”
Ta bước lên trước, hành lễ rồi nói:
“Đại nhân, chúng tiểu nhân vừa gặp thủy tặc trên kênh đào, việc này…”
Chưa nói dứt câu, huyện lệnh đã quát lớn:
“Vô lễ!”
“Địa phương ta làm chủ nào có chuyện thủy tặc! Đúng là đặt điều bịa đặt, còn không mau bắt lại cho ta!”
Ta thoáng rùng mình.
Chả trách Sóc Châu tiêu điều tàn lụi thế này, gặp phải sâu mọt nắm quyền, dân đen sao yên ổn nổi?
Tạ Linh Độ trừng mắt lạnh lùng:
“Triều ta từ khi nào lại có luật, chưa hỏi rõ đầu đuôi đã vội kết tội người?”
Tên huyện lệnh cười khẩy:
“Bản quan chính là pháp luật!”
Bên cạnh, chủ bộ lắc lư đầu đầy đắc ý:
“Đại nhân chúng ta xuất thân từ Tạ thị Kim Lăng, là dòng dõi quan quý bao đời đấy!”
Huyện lệnh bật cười ha hả, đứng bật dậy.
Người thì ục ịch, lại học đòi sĩ phu mặc áo dài rộng, trông chẳng khác gì con cóc bọc vải bố.
Hiển nhiên, Tạ Linh Độ cũng nghĩ thế, liền lạnh nhạt nói:
“Sao ta chưa từng nghe Tạ gia lại có thứ cóc nhái như ngươi vậy?”
Tên huyện quan nghe vậy thì nổi trận lôi đình, mắng thẳng là dân đen làm loạn.
Đang định gọi nha dịch xông lên bắt hết chúng ta lại, liền bị Tạ Linh Độ rút kiếm kề sát, đóng chặt xuống trước mặt.
Kiếm phong lạnh lẽo, sắc mặt Tạ Linh Độ lại càng giá băng.
Sóc Châu cách Kim Lăng chẳng mấy xa, vậy mà lại có phường chó lợn ở đâu giả làm hậu duệ Tạ thị, hoành hành tác oai tác quái.
Ta nhìn vẻ phẫn nộ của Tạ Linh Độ, nghĩ thầm Tạ thị trăm năm thế gia, hẳn cũng chẳng thiếu những kẻ dơ bẩn, nhơ nhớp như vậy.
Quả nhiên, ngay hôm sau khi áp giải huyện lệnh ấy lên phủ, liền có người Tạ thị đến tìm tới Sóc Châu.
Kẻ tới đây thần thái bất phàm, quay sang Tạ Linh Độ dịu giọng nói:
“Độ nhi, về nhà thôi. Hôm đó con bỏ đi, lão tổ tông lo đến phát bệnh.”
Hóa ra hôm ấy, Tạ Linh Độ cũng như ta, đều là muốn bỏ trốn.
Sắc mặt hắn u ám:
“Nhị thúc không cần khuyên nữa, con tự có chủ ý.”
Nhị thúc họ Tạ không đáp, chỉ mỉm cười quay sang ta:
“Cô nương đây hẳn là thiên kim của Tiền Đường vương Ngô hầu? Hôm nay gặp mặt, quả nhiên phong thái bất phàm.”
Phụ thân ta với Tạ gia vốn không qua lại nhiều, không rõ sao ông lại nhận ra ta.
Trên mặt ta không để lộ gì, chỉ lễ phép đáp lễ lại.
Ông ta lại nói tiếp:
“Có điều nghe nói Tiền Đường vương đã định hôn sự cho tiểu thư với Bắc cảnh, lẽ ra phải xuôi lên phía Bắc, sao giờ lại đi về phía Nam thế này?”
“Nhị thúc!”
Ánh mắt Tạ Linh Độ bỗng trở nên giá lạnh:
“Con sẽ về nhà, cần gì phải nhắc lại chuyện ấy?”
9.
Trong đêm, có người khe khẽ đẩy cửa sổ phòng ta.
Là Tạ Linh Độ với dáng vẻ thất thần, hoảng hốt.
Hắn rũ mắt, khẽ nói:
“Xin lỗi, ta thất hứa rồi, không thể cùng nàng đi Thúy Lăng nữa.”
Ta hiểu cảm giác bị bó buộc bởi trăm mối ràng buộc, bèn dịu dàng an ủi:
“Rồi sẽ có ngày còn gặp lại, còn cơ hội mà.”
Đêm nay trăng sáng dịu dàng, thật thích hợp để bày tỏ tâm sự.
Ta kể cho hắn nghe nỗi khó của mình: một nữ nhi tưởng như cao quý, mà lại không hề có chỗ dựa, cùng với một đoạn “kim ngọc lương duyên” chỉ mang khổ đau mà không thể lên tiếng.
Hắn cũng tâm sự nỗi trăn trở của mình: thì ra, “Tinh Dã Ky Khách” từng tự do ngang dọc núi rừng ấy, công tử nhà thế gia ngậm thìa vàng ấy, cuối cùng cũng chỉ là quân cờ trong tay phụ huynh.
Tạ Linh Độ ngẩng đầu lên:
“Hồi nhỏ, ta từng mắc bệnh hủi, ai cũng tránh xa, chỉ có tỷ tỷ ruột là chăm sóc cho ta. Nhưng đến lúc Tây Tắc loạn lạc, nàng lại bị ép đưa đi hòa thân. Năm năm trước, Tây Tắc khiêu khích, bắt giữ đại tỷ ta làm con tin, ép phụ thân phải rút quân…”
Nhưng phụ thân tốt đẹp của ta lại tự tay giương cung, một mũi tên bắn c.h.ế.c tỷ tỷ, tàn nhẫn đến mức ngay cả bọn man tộc Tây Tắc cũng phải sững sờ kinh hãi.”
Ta vốn sinh trưởng nơi thế tộc quyền quý, nào lạ gì những chuyện mờ ám trong dòng dõi danh gia.
Thế nhưng câu chuyện bi thảm như vậy vẫn khiến lòng ta run rẩy.
Lời phụ thân năm xưa chợt vang vọng bên tai:
Ông nói, triều đình lúc này loạn lạc không ngừng, rợ ngoài quan ải rình rập như hổ đói, Trung Nguyên thì các thế lực đấu đá lẫn nhau, làm người trong thiên hạ chẳng khác nào bước trên băng mỏng, mà vương phủ Bắc cảnh mới là chốn về tốt nhất cho ta.
Thật ra kiếp trước, ta từng oán giận ông.
Nhưng nghĩ kỹ lại, trong thế cuộc như vậy, ấy cũng là một cách bảo vệ.
Tự do mãi mãi song hành với hiểm nguy, mỗi lựa chọn đều chất chồng cái giá phải trả riêng.
Nhân thế vốn vô thường, xưa nay vẫn thế.
Ta lặng lẽ nhìn Tạ Linh Độ đang úp mặt vào hai bàn tay.
Đã trải qua những nỗi đau như thế, vậy mà kiếp trước, hắn quyền khuynh thiên hạ, vẫn giữ được tấm lòng thuở thiếu niên.
Hắn đào kênh dẫn nước, giảm thuế khóa, dẹp loạn bè phái, lại tự mình đi sứ biên ải, bình định bốn phương.
Một con người như vậy, số mệnh đã định sẽ được lưu danh trong sử sách.
Những phút do dự, trăn trở dưới trăng đêm hôm nay, rồi cũng sẽ trở thành nét chấm phá đậm nhất cho một đời hiên ngang của hắn.
Ta nhìn hắn, dịu dàng nói:
“Chớ vì lúc không được như ý mà nản lòng—”
Tạ Linh Độ ngẩng đầu, chăm chú đáp:
“Chỉ mong ngày sau lại được trùng phùng.”
Hắn nghĩ một lát, lại khẽ nói thêm:
“Khúc Giang, hãy chờ ta.”
“Khúc Giang! Đợi ta—”
Trong tiếng gọi xé lòng đó, bên vương phủ Bắc cảnh rối loạn.
Ba hôm trước, thế tử trong cơn giận đuổi theo Tống cô nương, vô ý ngã xuống vực sâu, mê man bất tỉnh.
Đến khi tỉnh lại, trong miệng lại gọi một cái tên chẳng ai biết.
Giọng điệu của thế tử bi thương tột cùng, khiến thị tùng bên cạnh toát cả mồ hôi lạnh.
Gã này vốn người đất Sở, tin vào tà thuật ma quỷ.
Nhìn thế tử như vậy, chẳng khác nào mắc phải “chứng ly hồn” mà người Sở thường truyền miệng.
Nghĩa là người mình thương đã thành người khuất núi, chẳng đành lòng chia lìa âm dương, nên hồn phách rời thân, đuổi theo tận cùng.
Gã không dám nghĩ thêm, lập tức đem chuyện này bẩm báo lại cho vương gia.