1.
Trước khi ý thức dần chìm vào hư ảo, ta vẫn cố nắm chặt lấy tay A Man, trong mắt còn vương luyến tiếc.
A Man nước mắt như mưa, nức nở nói:
"Vương phi, người hãy cố thêm chút nữa, Vương gia sắp trở về rồi."
Nhưng ai ai cũng biết, Kỷ Sơn Đình sẽ không quay lại nữa.
Trong phủ đã phái đi hết đợt người này đến đợt khác, song đều tay không trở về.
Nghe tin Vương phi bệnh nặng, sắc mặt Vương gia vẫn chẳng đổi, vẫn ung dung săn bắn nơi Bắc Nguyên.
Mãi đến lần cuối cùng, Kỷ Sơn Đình mới sa sầm mặt.
Hắn rút thanh bội kiếm bên hông, chém xuống một nhánh liễu khô, ném thẳng đến trước mặt người truyền tin.
Giọng hắn lạnh lẽo như gió mộ:
"Chẳng phải sắp c.h.ế.c rồi sao, bản vương ban cho nàng một tấm bia, chớ còn đến quấy rầy nữa."
Cành liễu khô là thứ gỗ hèn, trừ kẻ không nhà không cửa, chẳng ai dùng nó để làm bia mộ.
Dứt lời, Kỷ Sơn Đình liền mang theo đôi nhạn vừa săn được, phi ngựa đến phần mộ của Tống Dao Chước.
Từ sau khi Tống Dao Chước qua đời, năm nào Kỷ Sơn Đình cũng tự tay săn một đôi nhạn mới cho nàng, chưa từng vắng một năm.
Người thị tùng ôm tấm gỗ liễu ấy, nước mắt chảy dài một hàng.
Hắn không dám về phủ bẩm báo, chỉ đành cùng mọi người dỗ dành ta, rằng Kỷ Sơn Đình bị tuyết lớn cản đường, đang kẹt giữa núi nên tạm thời chưa thể về.
Nhưng nay Bắc cảnh mới chỉ đầu tháng bảy, sao lại có tuyết rơi.
Ta hiểu lòng tốt của họ, cũng giả vờ không hay biết.
Kỳ thực, ta thật sự đã chẳng còn bận lòng nữa.
2.
Hồi tưởng lại bao năm tháng, ta và Kỷ Sơn Đình chưa từng có lấy một ngày yên ấm.
Ta là nữ nhi của Tiền Đường vương đất Trung Nguyên, xuất thân hiển hách mà cô quạnh hiu hắt.
Khi ấy triều đình bè phái tranh giành, phụ thân lâm chung, sợ ta bị kẻ khác biến thành quân cờ mưu đồ quyền thế, bèn vì ta cầu xin một mối hôn nhân.
Định sẵn là thế tử họ Kỷ ở Bắc cảnh, Kỷ Sơn Đình.
Phụ thân và lão vương Bắc cảnh vốn giao tình sâu đậm, người nói Bắc cảnh phong tục thuần hậu, lại cách biệt Trung Nguyên, ắt là chốn tốt để gửi thân nương tựa.
Nhưng người chẳng hề nói cho ta biết, gió tuyết Bắc cảnh lạnh buốt đến nhường nào.
Cũng chẳng từng nói, Kỷ Sơn Đình vốn không hề yêu ta.
Ngày ta cùng A Man vượt muôn trùng vất vả đến được Bắc cảnh, giọng nói phương Nam của ta lại khiến mọi người chê cười.
Kỷ Sơn Đình lạnh lùng nhìn ta, nói:
“Ngươi đang nói thứ tiếng chim gì vậy?”
Rồi xoay người bỏ đi.
Ta ấm ức, buồn tủi nhìn theo bóng lưng hắn, trong lòng chỉ nghĩ: đó đâu phải tiếng chim ấy là thơ ca.
Kỷ Sơn Đình trời sinh tuấn mỹ, lông mày sắc nét, dáng vẻ hiên ngang, giống hệt chàng trai phương Bắc trong mộng của ta.
Phong vũ mịt mờ, gà chưa ngừng gáy.
Đã gặp quân tử, sao lòng chẳng vui?
Khi ấy ta nào hiểu lòng người, chỉ nghĩ ta và Kỷ Sơn Đình còn rất nhiều thời gian.
Thừa đủ để ta đem những câu thơ ấy, tỉ mỉ kể cho hắn nghe.
Thế nhưng suốt ba mươi năm, Kỷ Sơn Đình ít khi nói cùng ta lấy một lời.
Mỗi lần ánh mắt ta chạm đến, hắn đều cau mày quay đi, tỏ rõ vẻ khó chịu.
Ta ngỡ hắn vốn trầm mặc ít lời, cho đến một ngày, người cố nhân ghé thăm.
Kẻ ấy cười nói trêu ghẹo:
“Vương phi không biết, Sơn Đình huynh ngày trước nói nhiều nhất phủ, còn bị phu tử ban cho ngoại hiệu ‘Không biết ngậm miệng’ nữa cơ mà.”
Kỷ Sơn Đình ngồi bên, lặng lẽ lắng nghe bằng hữu cười nói, trong mắt tràn ngập ôn nhu.
Hắn cũng chẳng hề để tâm tới sắc mặt tái nhợt của ta.
3.
Về sau, có thị tùng vô tình buột miệng kể bên tai ta.
Bọn họ nói, năm xưa thế tử vốn là kẻ phóng túng nhất phương, cưỡi ngựa dạo phố, săn nhạn lượm tuyết, là chàng trai tự do nhất đất Bắc.
Nhưng kể từ ngày biệt ly với Tống cô nương, người ấy bỗng chốc hóa thành kẻ khác.
Bọn họ bảo, Tống cô nương đã mang đi cả hồn lẫn tâm của hắn.
Tống Dao Chước là con gái của dân lưu vong ở Bắc cảnh, thuở nhỏ đã quen biết cùng hắn.
Nàng cưỡi được ngựa, săn được gấu, là đóa tuyết liên rực rỡ nhất nơi đất Bắc.
Song nàng mang huyết mạch Hán – Hồ, mẫu thân vốn là người Hung Nô.
Kỷ gia đời đời trung liệt, trấn thủ biên quan, với Hung Nô mối thù không đội trời chung.
Làm sao có thể để thế tử lấy một nữ tử mang dòng máu Hồ nhân?
Không biết Kỷ Sơn Đình đã quỳ dưới tổ đường bao nhiêu lần vì nàng.
Nguy cấp nhất là lần chưa đến tuổi đội mũ, hắn lén lên chiến trường, một mình chém g.i.ế.c nửa doanh trại địch, chỉ mong lấy công ấy, đổi lại một cơ hội cưới Tống Dao Chước.
Kỷ gia vẫn không xiêu lòng, Tống Dao Chước thất vọng rời đi, chẳng lưu lại một lời, một bóng.
Trong oán hận, đau khổ, Kỷ Sơn Đình cưới ta.
Hắn trách ta, chê ta chẳng biết cưỡi ngựa, chê ta không dám săn gấu.
Hắn nói ta là tiểu thư thế gia vô dụng nhất, gặp gió tuyết là ngã bệnh ba ngày, làm sao xứng làm vương phi đất Bắc.
Nhưng hắn không hề hay biết, ta biết y thuật, biết làm thơ, biết buôn bán, biết cày cấy, biết toán số, thậm chí biết cả binh pháp.
Năm Hồng Liệt thứ hai mươi, Bắc cảnh gặp biến loạn.
Lão Bắc vương bị gian thần sát hại, Kỷ Sơn Đình cùng đại quân bị vây khốn ở Liên An Sơn.
Ta đem theo trăm họ trong thành, khổ tâm tính toán, dùng hết mưu kế, mới giữ vững được thành Bắc cảnh.
Khi đại quân trở về, ai ai cũng cảm động trước ta.
Kỷ Sơn Đình lần đầu tiên nghiêm túc nhìn ta, dường như muốn nói điều gì, cuối cùng lại lặng im.
Ngày hôm sau, hắn xuất hiện trong viện của ta, vẻ mặt lúng túng, suy nghĩ cả nửa ngày, mới cười nói:
“Hôm đó nàng nhắc đến thơ gì, có thể nói lại cho ta nghe lần nữa không?”
Đó là lần đầu tiên ta cảm nhận được ánh mặt trời rực rỡ phương Bắc, tựa hồ có thể làm băng tan giá nở, từ ấy xuân về hoa nở.
Nhưng, hóa ra chỉ là mình ta nghĩ vậy.
Bởi vì Tống Dao Chước đã c.h.ế.c.
C.h.ế.c giữa đám dân chạy loạn ngoài thành.
Kỷ Sơn Đình như sói tuyết cuồng nộ, từ trên giường xốc dậy thân thể bệnh tật của ta, lôi ta tới linh đường của Tống Dao Chước.
Hắn bắt ta phải quỳ lạy trước nàng, tạ tội với nàng.
Hắn hận ta đã ngăn nàng ngoài cổng thành, để rồi hắn và nàng âm dương cách biệt.
Lão Vương phi hoảng hốt chạy tới, quát lớn nghịch tử, cầm roi gia pháp đánh Kỷ Sơn Đình đến đầu rách máu rơi.
Nước mắt lưng tròng, bà nghẹn ngào nói:
“Khúc Giang đã vì ngươi mà bảo vệ trọn vẹn dân thành, vậy mà ngươi lại nhẫn tâm đối xử với nó như thế!”
Kỷ Sơn Đình đứng xa mà đáp:
“Là nàng ta đã hại c.h.ế.c Dao Chước.”
Lão Vương phi giận dữ quát:
“Nó nào hay biết nàng kia đang lẫn trong đám dân chạy loạn ngoài thành! Lại nói, nếu mở cổng thành, hôm nay ngươi còn thấy được mẫu thân đứng trước mặt nữa sao? Sao ngươi lại hồ đồ đến thế!”
Kỷ Sơn Đình đâu có hồ đồ, hắn đều biết cả.
Nhưng lại chẳng thể cam tâm với trò đùa trớ trêu của số phận.
Thế nên, hắn chỉ biết tiếp tục oán hận ta như trước.
Giữa đại sảnh ồn ào, ta ngẩng đầu, nhìn thấy tấm bia mộ của Tống Dao Chước.
Trên phiến ngọc Hòa Điền thượng hạng, khắc chi chít những lời yêu thương và nhung nhớ không bờ bến.
Người khắc lên tấm bia ấy, dường như chỉ mong được c.h.ế.c thay, chỉ để đổi lấy nàng được siêu sinh.
Ta nhìn tấm bia, khẽ nói một câu:
“Xin lỗi.”
Ta rời khỏi miền ký ức, đưa tay vuốt nhẹ khuôn mặt A Man.
Ta bảo:
“Ta không phải nhớ hắn đâu.”
Bắc cảnh tháng bảy, gió lạnh đã tràn về.
Nhưng tháng bảy ở Tiền Đường lại là thời điểm đẹp nhất.
Sông như dải lụa xanh vắt ngang, núi như trâm ngọc cài đầu.
“Ta chỉ muốn trở về Nam hương, nơi ấy chưa từng có tuyết rơi, mà én nhỏ ngày nào cũng bay về.
Hoa cỏ lại nhiều, mỗi khi nở rộ là một mùa xuân trọn vẹn.”
“A Man à, ta nhớ nhà biết bao…”
Sức lực dần dần cạn kiệt, ta chẳng còn nói thêm được lời nào.
Trong ý thức cuối cùng, vang lên tiếng bước chân ai vội vã, giáp lạnh va vào nhau vang động cả trời đông.
Có người dùng giọng Nam chưa thành thạo, gọi một tiếng “Khúc Giang” đứt ruột đoạn gan.
Nhưng ta, đã không còn lời gì để nói nữa rồi…