6.
Bóng đêm buông xuống, trên mặt sông chỉ còn lác đác mấy ngọn đèn chài lẻ loi.
Phía trước, ở chỗ rẽ dòng, bỗng có một chiếc thuyền lao tới.
Lúc đầu, thuyền công còn không để ý, nhưng càng nhìn chiếc thuyền kia lại càng phóng nhanh, nhằm thẳng vào thuyền khách của chúng ta.
“Không ổn rồi, nghịch dòng mà không dựng cờ hiệu, đây là quỷ thuyền!”
“Quỷ thuyền” là cách gọi trong nghề, ám chỉ bọn giặc nước, cướp đường sông các loại.
Trong khoang thuyền bỗng xôn xao náo động.
Người đi cùng chuyến đa phần là dân thường về quê, lại còn phụ nữ, trẻ con đông đảo.
Ta còn chưa kịp động thân đã bị Tạ Linh Độ kéo xuống dưới.
Hắn xách kiếm, rồi lấy áo tơi trên thuyền trùm cho ta và A Man:
“Chớ phát ra tiếng, cũng đừng ra ngoài.”
Dứt lời, hắn liền chui ra khỏi khoang thuyền.
A Man nắm chặt tay ta, nhắm nghiền mắt run rẩy:
“Tạ Linh Độ đúng là miệng quạ đen…”
Ta âm thầm tính toán, nếu chỉ là bọn thảo khấu thông thường, hoặc nộp tiền tài, hoặc dùng vũ lực xua đuổi, đều còn có thể xoay sở.
Nhưng nếu thực sự là bọn thủy tặc Hoài Đông, thì rắc rối lớn rồi.
Thủy tặc Hoài Đông đã làm loạn suốt ba năm nay, dù triều đình đã quét sạch phần lớn, song vẫn còn vài toán tàn dư lẩn trốn đây đó.
Triều đình có lệnh, hễ bắt gặp là phải g.i.ế.c ngay, nên số còn lại đều là những kẻ liều mạng không còn gì để mất.
Chúng không vì tiền tài, chỉ cốt g.i.ế.c người.
Mới nãy, ta thấy trong khoang thuyền của “quỷ thuyền” lấp ló ánh lửa xanh, hẳn đúng là đám tặc Hoài Đông.
Vừa thấy ta thò đầu ra khỏi khoang, Tạ Linh Độ cau mày:
“Ra đây làm gì, mau quay lại đi.”
Hắn tay nắm kiếm đứng đó, khí thế đã đổi khác hẳn.
Tạ gia coi trọng gia phong, lục nghệ quân tử không thiếu một môn, mà kiếm đạo lại là sở trường.
Ta không nghi ngờ bản lĩnh của hắn, dù gì chức Thái sư triều ta vừa nắm văn vừa chưởng binh quyền.
Chỉ là, cảm giác phó thác toàn bộ hy vọng vào một người, thực sự khiến ta khó yên lòng.
Nhìn chiếc thuyền đối diện càng lúc càng áp sát, ta bình tĩnh nói:
“Địch đông ta ít, so kè sức lực không bằng lấy mưu.”
“Hử, mưu gì?”
“Hoả công.”
Ta vừa dứt lời, thuyền công đã nhăn nhó phản bác:
“Cô nương chớ sinh chuyện, chúng ta lấy đâu ra điều kiện ấy, mà chờ lúc đối phương cháy hết, ta với cô nương cũng hóa thành ma dưới đao chúng rồi!”
Lời oán trách vang lên khắp nơi, nỗi hoang mang sợ hãi vì gặp thủy tặc giờ phút này càng bộc phát dữ dội.
Có kẻ còn oán trách thuyền công, rằng đáng ra không nên nhận lên thuyền những nữ tử đi một mình như ta.
“Một thân một mình còn lang bạt khắp nơi, ắt chẳng phải người tốt lành gì!”
Lại có kẻ độc miệng hơn nữa:
“Hay là giao mấy ả này cho bọn thủy tặc, chúng ta mới có đường sống sót!”
Trong đêm gió, Tạ Linh Độ vung kiếm, chém bay búi tóc của kẻ la lối lớn tiếng nhất.
“Ta thấy chi bằng trước tiên tiễn ngươi đi thì hơn.”
Chung quanh lập tức im phăng phắc.
Tạ Linh Độ nhìn ta, trong mắt không hề có ý nghi ngờ, “Cô nương cứ nói.”
Ta lên tiếng:
“Ta xem trên thuyền phần lớn là thợ thêu trở về quê từ Tô Châu, nghề thêu vốn dùng tay là chính, mà thợ thêu lại rất chú ý giữ gìn đôi tay.
Vừa hay, ở bến Quả Châu có dầu hạt thầu dầu vừa tốt vừa rẻ, ai cũng mang theo.
Dầu hạt thầu dầu rất dễ cháy, lại thêm dầu đồng dùng để bảo dưỡng trên thuyền, e rằng cũng đủ dùng.”
Thuyền công ngẩn người, rồi lại hỏi:
“Nhưng làm sao đảm bảo đốt cháy được hết ‘quỷ thuyền’ kia, nhỡ mà chúng nó...”
Ta ngắt lời ông, mắt nhìn ánh lửa xanh lập lòe trên sông:
“Không có nhỡ đâu.”
Bọn thủy tặc Hoài Đông muốn dọa người, nên ở đầu thuyền đều vẽ hình khỉ mông đỏ, khoang thuyền thắp lửa xanh ma mị.
Thứ lửa đó là từ phấn của thiêu thân núi khô, gặp lửa thì bén ngay, nước dội cũng không tắt.
Nghe vậy, người trên thuyền không còn ai dám phàn nàn hay châm chọc nữa, ai nấy liền bắt tay hành động: người thì đi lấy dầu đồng, người thì buộc những mồi lửa giản đơn chuẩn bị chiến đấu.
Chiếc “quỷ thuyền” càng lúc càng áp sát, còn chưa kịp buông lời hăm dọa thì đã hóa thành con thuyền rực lửa giữa dòng sông.
Có tên cướp nhảy xuống nước bỏ trốn, nhưng trên người dính đầy phấn lân tinh, chỉ thành những quả cầu lửa quằn quại giữa sóng.
Thuyền công nhân cơ hội lập tức chuyển hướng, nhắm về phía huyện thành gần nhất, bỏ lại “quỷ thuyền” xa tít phía sau.
Thoát nạn trong gang tấc, mọi người trên thuyền đều hân hoan phấn chấn.
Trên boong, người đứng chật như nêm, dưới bầu trời sao lấp lánh cùng làn gió đêm hiu hiu, có người đã cất tiếng hát điệu dân ca Quả Châu.
Tên đàn ông vừa rồi nảy ác ý với ta, bị mọi người xô đẩy tới trước mặt ta, mặt mày xấu hổ, bỗng quỳ “phịch” xuống:
“Cô nương có đại nghĩa, là ta có lỗi, muốn đánh muốn phạt gì cũng xin chịu.”
Tóc rối xõa một bên, trong đôi mắt thô ráp lại lấp lánh giọt lệ.
A Man giận dữ:
“Vậy thì ta đá thẳng ngươi xuống sông cho hả giận!”
Ta để ý tay hắn đầy vết chai, áo quần tuy giản dị nhưng lại thắt một túi thơm tinh xảo đã ngả màu, nghe tiếng hắn nói, nhận ra ngay giọng vùng Thục.
Mấy năm gần đây Thục địa đại hạn, nhiều nhà đành cho đàn ông lên Bắc kiếm sống, hắn xa nhà đã lâu, gom góp chút bạc mới được về quê, ta cũng thấu hiểu.
Ta ngăn A Man lại:
“Không cần đâu, đời người lưu lạc xứ người, ai mà chẳng khó nhọc.”
Nếu thế gian có thêm chút thấu hiểu, thì những kẻ cùng đường bị vây khốn cũng sẽ thêm phần can đảm khi trốn chạy.”
Gã đàn ông nước mắt lã chã, lấy rượu Thục nhà mình đem chia cho mỗi người một chén.
Ta uống mỹ tửu, ngắm nước sông giữa đêm, lần đầu tiên cảm nhận được hương vị của tự do.
Bất chợt, có người nhẹ nhàng kéo tay áo ta – là Tạ Linh Độ.
Hắn vận áo xanh phấp phới, khuôn mặt như ngọc, tựa hồ muốn hóa thành tiên, vậy mà đôi mắt lại ngập ý nũng nịu đáng thương:
“Cô nương có đại nghĩa, ta cũng có lời xin nhận tội, dù bị đánh bị phạt, tuyệt chẳng dám cãi.”
Ta ngạc nhiên:
“Ngươi sai ở đâu chứ?”
Hắn che miệng cười khẽ:
“Ta nói sai là, lẽ ra phải bảo chuyến đi này không yên ổn, càng cần những nữ nhi anh dũng như Khúc Giang bên mình mới đúng!”
Qua một dòng nước, ánh mắt hắn bỗng sáng ngời dịu dàng.
Ta lảng tránh, trong lòng bỗng thấy rối loạn.
----------------
Lúc ấy, nơi biên ải vạn dặm phía Bắc, chuyến thuyền vượt sông cuối cùng trước kỳ băng giá cũng vừa cập bến.
Người của vương phủ Bắc cảnh trông dài cổ mà chẳng thấy bóng dáng vị tiểu thư nào.
Trong phủ, lão Bắc vương cầm một phong thư, vẻ mặt trầm trọng.
Vương phi bất an lo lắng:
“Đã bảo phái người đi đón trước rồi, chẳng phải đã tránh được rắc rối này sao?”
Lão Bắc vương chỉ biết thở dài, không nói một lời nào.
7.
Vì chuyện thủy tặc, thuyền khách đổi hướng, ghé vào huyện Sóc Châu gần kênh đào nhất.
Ta và Tạ Linh Độ vốn định đến nha môn trình báo, dẫu sao cũng không biết trên các tuyến sông khác còn bọn thủy tặc nào lẩn trốn nữa không.
Nào ngờ, vừa bước chân vào nha môn mới biết sự tình chẳng dễ dàng.
Sóc Châu là một thành nhỏ nằm giữa đoạn kênh đào, dân số không nhiều, nhưng do nằm ở vị trí then chốt giao thương nên xưa nay vẫn nổi danh giàu có.
Thế nhưng, vừa vào thành đã thấy dọc đường nhà cửa tiêu điều, hoang phế thê lương.
Chỉ có nha môn huyện là xây dựng bề thế, trước cửa đứng đầy nha dịch vạm vỡ, chúng ta còn chưa kịp lại gần đã bị quát tháo xua đuổi:
“Ở đâu ra bọn dân đen này, chẳng biết hôm nay phủ nha không tiếp dân à?”
Thuyền công chỉ lắc đầu, như thể chuyện thường ngày ở huyện.
A Man thắc mắc:
“Hôm nay đâu phải ngày tắm rửa nghỉ ngơi, sao lại không xử lý công chuyện?”
Thuyền công hạ giọng giải thích:
“Nghe nói từ ngày huyện lệnh mới đến, nha môn Sóc Châu có ‘ba không xử’.”
“Ba không xử là gì?”
“Trời tối không xử, trời nắng không xử, trời mưa càng không xử.”
“Thế thì hóa ra chẳng thèm xử gì cả! Vậy là quan hay lưu manh chứ?”
Tạ Linh Độ cau mày, chỉnh lại vạt áo, lại tiến lên phía trước, rút mấy đồng bạc vụn đưa cho đám nha dịch.
“Nhờ các vị bẩm báo một tiếng, chúng ta có việc gấp muốn trình lên huyện lệnh.”
Nghe nói chúng ta đến từ Quả Châu, bọn họ có phần dịu đi, nhưng vẫn chưa chịu nhượng bộ.
A Man tức tối, định xông vào, bị Tạ Linh Độ ngăn lại.
Hắn vỗ đầu, làm ra vẻ tiếc nuối sâu sắc, kéo chúng ta định bỏ đi.
“Thôi thôi, cách kiếm tiền này hôm nay xem ra chẳng thể trình bày với huyện lệnh rồi.”
Ta lập tức hiểu ý, cũng lớn tiếng phụ họa:
“Phải đó phải đó, uổng cho bọn ta vượt ngàn dặm đến đây xin quy phục.”
Vừa dứt lời, tên nha dịch đã gọi với theo:
“Khoan đã khoan đã, các vị chớ vội, để ta vào báo một tiếng.”
Chẳng bao lâu, hắn trở ra với nụ cười niềm nở, dẫn chúng ta vào tận trong nha môn.
Trong đại sảnh lại là một thế giới khác, lầu các, cửa ngõ chồng chất, rõ ràng đều là đồ tinh xảo nhưng lại phô trương rối rắm.
Sân viện một bên trồng kín mộc lan, bên kia lại bày la liệt ngọc khí.
A Man lẩm bẩm:
“Cái dáng vẻ gì kỳ quái thế này?”
Tên nha dịch quay lại, nhìn ta với vẻ tự đắc của kẻ nhà quê mới lên phố:
“Đại nhân nhà chúng ta xuất thân thế gia họ Tạ, gọi là ‘chi lan ngọc thụ’ đó!”
Lần đầu nghe giải thích như vậy, suýt nữa thì ta không nhịn được mà bật cười thành tiếng.
Nghe trong lời hắn lại nhắc tới “họ Tạ”, ta càng buồn cười, khẽ liếc nhìn Tạ Linh Độ bên cạnh.
Ánh mắt Tạ Linh Độ tràn đầy bực tức, nhỏ giọng lầm bầm:
“Ta mới chẳng bao giờ ra vẻ thế đâu!”
Hiếm khi thấy hắn cứng họng, ta chỉ mỉm cười không nói.
“Hừ,” hắn nghiến răng ken két, “Ta không muốn giả bộ nữa, hay là trực tiếp vung đao với cái tên huyện lệnh kia cho rồi.”
Ta cười càng rạng rỡ:
“Biết rồi, biết rồi mà.”
Tạ Linh Độ càng tức, mắt đầy vẻ oán thán.