10.
Nhờ có người Tạ gia hộ tống, chẳng bao lâu sau ta đã đặt chân tới Thúy Lăng.
Thúy Lăng quả nhiên không phụ tiếng đồn, đúng như lời Tạ Linh Độ từng nói.
Sau bao chuyện dọc đường, ta cũng rút được kinh nghiệm: muốn an ổn, phải có chỗ dựa trong tay.
Ta thuê lại một gian cửa tiệm nhỏ, định mở một y quán.
Người Thúy Lăng tuy phóng khoáng cởi mở, song vẫn giữ thành kiến với nữ y.
Ngày khai trương, trước cửa y quán chen chúc người qua kẻ lại, nhưng không một ai dám bước vào hỏi thăm.
Ta quan sát thần sắc của họ, có người tò mò, có người ngạc nhiên, nhưng tuyệt không có vẻ kiêu căng hay giễu cợt.
Vậy thì dễ rồi.
A Man xị mặt than thở:
“Tiểu thư sao còn chưa lo lắng gì cả?”
Ta cầm bút viết xoèn xoẹt một tờ đơn thuốc:
“Đừng đứng không, mau đi sắc thuốc theo đơn này đi.”
“Hạnh nhân, bạch thông thảo, lá trúc, đậu đỏ… Tiểu thư kê đơn gì vậy?”
Ta khẽ cười:
“Ngươi đoán thử xem?”
Ngày hôm sau, quầy của ta bày đầy những ly trà khai trương.
A Man cất giọng rộn rã:
“Trà làm đẹp giữ dáng miễn phí tặng đây——”
Có người ngần ngại tiến lại hỏi:
“Cô nương, trà này thật sự uống vào sẽ đẹp da giữ dáng sao?”
“Đương nhiên rồi.”
Thấy mọi người vẫn còn do dự, ta bèn tự mình bưng một chén lên uống cạn.
“Quý bà con cô nương bác đi ngang qua cứ thử một chén cũng chẳng mất gì.”
Có một bà lớn tuổi săm soi mặt ta hồi lâu, rồi bất ngờ đẩy người trước mặt ra:
“Nhìn cái mặt con bé này mịn màng thế kia, biết đâu hiệu nghiệm thật. Để ta thử xem nào!”
Thấy vậy, mọi người cũng rần rần tiến tới lấy trà.
Chẳng mấy chốc, quầy trước cửa y quán đã trở nên náo nhiệt rôm rả.
Vài ngày sau, quả nhiên có không ít người phát hiện thân thể nhẹ nhõm hơn, sắc mặt cũng tươi sáng lên đôi chút.
Tin đồn lan xa, danh tiếng y quán dần vang lên, trước cửa lúc nào cũng nối dài hàng người chờ đợi.
A Man ôm gương xoay trái ngó phải:
“Ta cũng uống không ít trà dưỡng nhan đó, sao chẳng đẹp lên chút nào?”
Ta bật cười:
“Ngươi vốn chẳng có nhiều hàn thấp trong người, dĩ nhiên sẽ chẳng thấy thay đổi gì.”
“Hàn thấp là gì vậy?”
“Khí hậu Thúy Lăng ôn hòa, thực vật um tùm, lại kề bên sông, nên khí ẩm nặng, sương độc nhiều. Ngươi xem người bản xứ, phần nhiều thân thể phì nộn, mặt dày bóng nhờn, đều là do hàn thấp xâm nhập gây nên.”
“Cái gọi là trà dưỡng nhan, thực ra chỉ là thang mát thanh nhiệt, tán thấp tiêu viêm mà thôi.”
Chợt có một giọng nói vang lên:
“Con bé này thật thông tuệ, không biết sư phụ là ai?”
Người vừa lên tiếng là một lão đạo râu bạc trắng.
Ta chắp tay hành lễ:
“Vãn bối không có thầy truyền dạy.”
“Ồ, thì ra là tự học thành tài.” Ông vuốt râu cười, “Ta là Trương Trọng Sinh, vốn là đạo y. Nếu cô nương không chê, có nguyện ý bái ta làm thầy không?” Trong mắt ông ánh lên vẻ kỳ vọng.
Ta bất giác ngẩng đầu.
Trước mắt ta, chính là Trương Trọng Sinh, vị danh y lừng danh thiên hạ mà hành tung khó lường.
Kiếp trước, Trung Nguyên từng bùng phát dịch bệnh, nhờ có tiên sinh mới được ngăn chặn phần nào.
Nhưng vì tận tụy cứu giúp, ông lại nhiễm bệnh qua đời.
Tiên sinh chưa kịp truyền nghề cho ai, dịch bệnh lại bùng phát dữ dội, sinh linh đồ thán.
Ta nghiêm cẩn nhìn ông:
“Khúc Giang nguyện bái tiên sinh làm thầy.”
Ông bật cười sang sảng:
“Tốt, tốt lắm, xem như y thuật họ Trương ta có người kế thừa rồi!”
Nhiều năm sau—
Trước lúc viên tịch, ông hỏi ta:
“Khúc Giang, con biết vì sao ta thu nhận con làm đồ đệ không?”
Ta lắc đầu.
Danh tiếng của thầy lẫy lừng thiên hạ, người muốn học nghề nhiều không kể xiết.
Nói về tư chất, ta nào phải xuất sắc nhất.
Thầy khẽ mỉm cười:
“Nhiều người bảo ta tính tình cổ quái, cả đời không truyền lại tuyệt học. Nhưng hành nghề y bao năm, ta đã thấu hiểu lòng người. Người làm thầy thuốc, bất luận y thuật cao thấp, tấm lòng nhân nghĩa mới là điều quan trọng nhất.”
Ông thở dài:
“Hoàng du vốn có công hiệu tiêu sưng giảm đau, là vị thuốc thường dùng ở nhà nghèo. Cũng vì thế, thương nhân, thầy thuốc thi nhau đẩy giá lên cao.”
“Hôm đó, đi ngang y quán của con, người người đều bán hai lượng bạc, chỉ riêng con chỉ lấy một văn.”
“Bởi Hoàng du, vốn chỉ đáng giá một văn thôi mà.”
Nước mắt ta lã chã tuôn rơi.
11.
Những ngày ở Thúy Lăng trôi qua rất nhanh.
Ban ngày, ta bận rộn khám bệnh ở y quán.
Ban đêm, lại vùi đầu nghiên cứu y thư mà Trương sư phụ để lại.
Ngoài ra, ta với A Man còn “nhặt” thêm một cô nương về.
Tên nàng là Xuân Hoa.
Cái tên nghe quê mùa, nhưng người thì thanh tú dịu dàng.
Chỉ khổ cho số phận nàng, khi gặp ta thì đang bị vị hôn phu toan dìm c.h.ế.c xuống ao.
Ta và A Man vốn không thể làm ngơ, liền ra tay cứu nàng.
Từ đó, bên cạnh lại nhiều thêm một cái “đuôi nhỏ”.
Ngày tháng cứ thế êm đềm trôi đi, cũng coi như chẳng tệ.
Chỉ là, ngoài việc thư từ của ai đó gửi đến quá mức phiền phức, thì mọi sự cũng đều tốt đẹp cả.
“Chậc chậc, tháng này đã là bao nhiêu phong rồi nhỉ?”
A Man nháy mắt ra hiệu với Xuân Hoa, “Xong rồi, ngọc bạch thái nhà mình sắp bị lợn ủi rồi đó!”
Xuân Hoa thật thà:
“Nhà mình chỉ có bắp cải trắng, làm gì có ngọc bạch thái, càng không nuôi lợn. Nhưng nhắc đến bắp cải, hôm nay nấu thịt heo hầm cải trắng nhé? Ta có thể ăn ba bát cơm lớn đó!”
“Cái con nha đầu này, hết thuốc chữa rồi!”
Ta nhìn hai nàng, chỉ biết lắc đầu, rồi tập trung đọc thư của Tạ Linh Độ.
Hắn vẫn lải nhải không ngừng.
Hắn bảo, Kim Lăng sắp có tuyết rơi.
Tuyết thì tuyết thôi.
Nhưng hắn lại kể, tuyết Kim Lăng rơi thường kèm theo mưa, nắm không thành, bước lên là tan thành nước. Xa trông thì nhiều, lại gần đã chẳng còn gì.
Lại kể, hắn nuôi một con mèo mướp.
Nuôi thì nuôi thôi.
Nhưng hắn lại phải tả, mắt nó màu xanh nhạt phủ vàng, trông như viên lưu ly đã được mài qua. Lông thì đen vàng xen lẫn vằn, râu mép ba ngắn hai dài.
Sao hắn có thể nói nhiều như thế.
Chuyện của người ta chỉ cần một câu, đến lượt hắn lại phải bẻ nhỏ, kể lể tường tận từng li từng tí.
Trong lòng ta vừa bực vừa buồn cười, khóe môi không tự chủ mà cong lên.
Những ngày xưa trống trải, giá lạnh, tựa hồ cũng nhờ từng dòng thư vụn vặt ấy, mà tan biến chẳng còn dấu vết.
Nhưng những ký ức bị vùi sâu kia, chỉ một tháng sau lại cuộn trào trở lại.